Trách nhiệm dân sự - so sánh và phê phán
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát...
I. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Trách nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật (1). Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp lý giữa trái chủ và người thụ trái xác định, tại đó người thụ trái bị pháp luật cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ được xem như vi phạm pháp luật. Về điểm này, Bộ luật Dân sự Pháp qui định “hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết” (Điều 1134), tức là nghĩa vụ hợp đồng cũng có giá trị như luật. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự - một loại trách nhiệm pháp lý mà, theo nghiên cứu của học giả Lê Văn Cảm, có các đặc điểm: (1) Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm; (2) Luôn luôn được thực hiện trong phạm vi quan hệ giữa Nhà nước và bên vi phạm; (3) Được xác định bằng trình tự đặc biệt do pháp luật quy định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (4) Được thực hiện trong phạm vi văn bản đã có hiệu lực pháp luật đối với người vi phạm; (5) Có thể áp dụng đối với cả pháp nhân đối với vi phạm ngoài luật hình sự (2).
Khác với quan điểm này và có phần cô đọng hơn, một số học giả khác của Việt Nam cho rằng, trách nhiệm dân sự cũng có các đặc điểm như trách nhiệm pháp lý, bao gồm: (1) chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó; (2) là một hình thức cưỡng chế nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; và (3) luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật (3).
Có học giả cho rằng, việc phân biệt giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm pháp lý cũng không ít quan điểm khác nhau, tuy nhiên nhiều ý kiến đồng nhất về các đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm dân sự là quan hệ luật tư giữa hai chủ thể độc lập có địa vị pháp lý bình đẳng, và bên vi phạm phải gánh chịu trực tiếp trước bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước hoặc người khác, trừ trường hợp chế tài vô hiệu hợp đồng do chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội;
Thứ hai, trách nhiệm dân sự bao giờ cũng là trách nhiệm tài sản;
Thứ ba, trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương xứng với hậu quả của hành vi vi phạm, tức là tương xứng với mức độ tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà người thiệt hại phải gánh chịu;
Thứ tư, trách nhiệm dân sự phải được áp dụng thống nhất và như nhau đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (4).
Khi khái quát các ý kiến chung của các luật gia về các đặc điểm của trách nhiệm dân sự như trên, người khái quát không chỉ rõ đó là ý kiến chung của các luật gia trên thế giới thuộc các họ pháp luật khác nhau hay chỉ thuộc một họ pháp luật, hay đó là ý kiến chung của các luật gia Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bản thân người khái quát như vậy cũng tự nhận thấy có quá nhiều điểm ngoại lệ với so với các đặc điểm được khái quát, chẳng hạn liên quan tới phạt vi phạm hợp đồng, tới vô hiệu hoá các hợp đồng chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Trước hết, nói tới đặc điểm thứ ba trong nghiên cứu khái quát trên. Mức độ tổn thất về tinh thần khó có thể vật chất hoá, do đó, khó có thể xác định được mức độ tương xứng về bồi thường vật chất. Nên thông thường, trong việc xâm phạm quyền nhân thân, hầu hết các nền tài phán đều kết hợp nhiều loại chế tài đối với người vi phạm mà bù đắp tổn thất chỉ là một trong số đó. Điều 611, khoản 2, Bộ luật Dân sự 2005 có nhắc tới việc bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị vi phạm, tuy nhiên không hề bày tỏ tinh thần bù đắp tương xứng với thiệt hại về tinh thần, nên tự đưa ra một giới hạn tối đa cho khoản bù đắp đó là không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, trong trường hợp các bên không thể thoả thuận được mức bồi thường.
Khi đưa ra đặc điểm thứ ba nêu trên, tác giả của nó cũng đã phân vân và lập luận rằng: (1) pháp luật có thể quy định những trường hợp ngoại lệ mà trách nhiệm dân sự không nhất thiết phải phù hợp và tương xứng với mức độ tổn thất về vật chất và /hoặc tổn thất về tinh thần do hành vi vi phạm gây ra; và (2) phạt vi phạm hợp đồng theo thoả thuận là một minh chứng cho ngoại lệ này; và (3) “tuy nhiên, điều cần lưu ý là ngay cả đối với một số dạng, loại hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm, quy tắc “phù hợp và tương xứng” vẫn được áp dụng ở mức độ nào đó”, và “điển hình là quy định về mức phạt vi phạm tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005” (5). Về các lập luận này, có thể nói ngay, chưa kể đến sự đúng sai, nhưng khác hẳn với tinh thần của Điều 301, Luật Thương mại 2005, một mức phạt không giới hạn được Bộ luật Dân sự 2005 cho phép trong Điều 422.
Tại một hội thảo quốc tế về hợp đồng thương mại quốc tế, trong phần tham luận của mình, Bernado M. Cremades nhận định: các điều khoản quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp không thực hiện hợp đồng, cũng như các điều khoản phạt vi phạm là những điều khoản thông dụng trong một số loại hợp đồng quốc tế (thuê, vay, thực hiện dịch vụ định kỳ…). Ông chỉ rõ điểm khác biệt cơ bản giữa điều khoản bồi thường và điều khoản phạt ở chỗ: điều khoản phạt nhằm mục đích bảo đảm thực hiện hợp đồng, còn điều khoản bồi thường thiệt hại nhằm mục đích xác định khoản bồi thường khi một bên không thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, các nền tài phán có cách nhìn nhận rất khác nhau về điều khoản phạt. Chẳng hạn toà án Anh Quốc coi điều khoản phạt là có tính chất trừng phạt, do đó không có hiệu lực; còn điều khoản bồi thường chỉ hợp lệ khi mức bồi thường thiệt hại được các bên thoả thuận thực sự thể hiện được mức thiệt hại ước lượng do vi phạm hợp đồng, với điều kiện phải thoả mãn tiêu chí là khoản bồi thường đã được các bên đánh giá hoặc dự kiến hợp lý bù trừ công bằng cho việc không thực hiện hợp đồng hoặc khó có thể xác định được chắc chắn về mức bồi thường. Trong khi đó, một số hệ thống pháp luật lại cho phép thiết lập các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng như một biện pháp răn đe. Chẳng hạn, luật dân sự Tây Ban Nha thừa nhận chế tài kép vừa phạt vi phạm, vừa bồi thường thiệt hại (6).
Các phân tích này cho thấy, đặc điểm thứ ba của trách nhiệm dân sự được khái quát nêu trên không thoả đáng, bởi không mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, nó cũng phần nào phản ánh được ước vọng thiết lập nên một nguyên tắc công bằng trong quan hệ hợp đồng hay quan hệ nghĩa vụ.
Phản ánh quan điểm của hầu hết các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa; “Trách nhiệm dân sự - đó là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm dưới hình thức tước quyền dân sự (như tước quyền sở hữu, tước quyền thừa kế…) và/hoặc bằng hình thức đặt ra cho họ những nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp phạt vi phạm hoặc trả tiền lãi đối với khoản nợ chậm trả” (7). Dường như định nghĩa này đã đồng nhất giữa trách nhiệm dân sự với chế tài dân sự, và cho rằng trách nhiệm dân sự chỉ áp dụng cho vi phạm nghĩa vụ. Trong khi đó, một số luật gia Nhật Bản phân tích: trách nhiệm được thể hiện bằng hình thức cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản của người mắc nợ; tuy nhiên, có thể có trường hợp trách nhiệm không có nghĩa vụ, chẳng hạn trách nhiệm áp dụng đối với người bảo lãnh, người thứ ba sở hữu tài sản thế chấp (8). Vậy không phải bất kể trường hợp nào bị áp dụng chế tài cũng đều có sự vi phạm nghĩa vụ. Pháp luật dân sự Nhật Bản ấn định gánh nặng tương đương lên người bảo lãnh như người thụ trái chính trong trong nghĩa vụ bảo đảm. Khi có một bảo lãnh đối với một nghĩa vụ chuyển giao mà không thay thế, thì nó được xem như một điều kiện đình chỉ chuyển đổi thành nghĩa vụ chi trả bồi thường bởi sự không thực hiện nghĩa vụ chính (9).
Dưới chế độ cũ ở Việt Nam, có luật gia quan niệm: “Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà Dân luật coi như là trái luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người làm ra hành vi trái luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà gây tổn thiệt cho người khác” (10). Quan niệm này có phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của trách nhiệm dân sự hay không là một câu trả lời không quá khó. Tuy nhiên, đâu là điểm hợp lý của định nghĩa này và chúng phát xuất từ đâu thì cần phải tìm hiểu.
Luật La Mã xác định, ngoài các nguyên nhân hợp pháp như hợp đồng và chuẩn hợp đồng, nghĩa vụ còn phát sinh ra bởi nguyên nhân bất hợp pháp như vi phạm (delictum) và chuẩn vi phạm (quasi ex delicto). Vi phạm được chia thành hai loại là tội hình sự và dân sự phạm. Đối với dân sự phạm, nạn nhân có thể kiện ra toà xin bồi thường. Dân sự phạm (damnum injuria) là sự thiệt hại gây ra một cách bất chính đáng cho người khác, làm nghèo cho nạn nhân nhưng không làm giàu thêm cho người vi phạm (11). Vi phạm được quy định bởi luật Aquilia. Tuy nhiên các luật gia La Mã chưa bao giờ đạt tới nguyên tắc chung rằng mọi người phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình gây ra cho người khác. Mãi tới thế kỷ XVII và XVIII, nó mới được đưa ra bởi các luật gia thuộc trường phái luật tự nhiên, tiêu biểu là Grotius và Domat, rồi được ghi nhận trong các bộ luật của Châu Âu (12). Ngày nay, Bộ luật Dân sự Pháp có qui định nguyên tắc tổng quát: “Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải bồi thường thiệt hại” (Điều 1382). Tuy nhiên nhiều hệ thống pháp luật thuộc Họ pháp luật La Mã - Đức ngày nay đã tiếp nhận các thành tựu của Luật La Mã liên quan tới lỗi Aquilia, tố quyền Paulus, chuẩn vi phạm… Các vi phạm do luật Aquilia điều chỉnh bao gồm: (1) Giết bất hợp pháp nô lệ hay gia súc bốn chân; (2) một chủ nợ phụ tha cho con nợ làm thiệt hại cho chủ nợ chính; và (3) những thiệt hại nhỏ gây ra cho nô lệ hoặc gia súc. Theo luật Aquilia hành vi gây thiệt hại có hai đặc tính là bất hợp pháp và do chính người vi phạm gây ra. Chế tài đối với những vi phạm này có cả tính hình sự và dân sự như tù giam, bồi thường thiệt hại. án lệ La Mã đã chuyển hoá từ quan niệm việc làm trái pháp luật (injuria) sang lỗi (culpa). Lỗi này được xem là hành động cố ý gây thiệt hại hoặc bất cẩn đáng chê trách (lỗi Aquilia). Người La Mã lúc này đã phân biệt giữa lỗi và sự vô tình (casus). Lúc đầu thiệt hại do vi phạm gây ra được tính theo năm trước khi xảy ra thiệt hại. Lâu dần được tính toàn bộ thiệt hại, kể cả lợi tức để bồi thường. Luật La Mã tại đây đã phát hiện ra hai vấn đề pháp lý quan trọng là sự thiệt hại phát sinh và khoản lời bị mất. Hai vấn đề này được tiếp nhận vào Điều 1149, Bộ luật Dân sự Pháp (13): “Những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà họ mất và món lợi mà họ không được hưởng, ngoại trừ những biệt lệ và sửa đổi dưới đây”. Nguyên lý này cũng được phản ánh trong Điều 307, khoản 2, Bộ luật Dân sự 2005: “Trách nhiệm bồi thường về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”. Trong các dân sự phạm, theo Luật La Mã, có một vi phạm đặc biệt làm phát sinh ra tố quyền Paulus (14). Người thụ trái không có khả năng trả nợ, nếu có hành vi gian trá tẩu tán tài sản làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của mình, thì tố quyền Paulus được áp dụng. Về nguyên tắc tất cả các tài sản của con nợ là bảo đảm chung cho các chủ nợ. Nguyên tắc này đã được phản ánh vào Điều 2092, Bộ luật Dân sự Pháp rằng: “Người nào bị ràng buộc vào một nghĩa vụ cá nhân thì phải thực hiện nghĩa vụ bằng tất cả tài sản của mình, động sản và bất động sản, hiện có và sẽ có”. Do vậy, khi người thụ trái tẩu tán tài sản của mình gây thiệt hại cho trái chủ, thì tố quyền Paulus là biện pháp bảo toàn tài sản cho trái chủ bằng cách cho phép trái chủ kiện gián tiếp hành vi tẩu tán tài sản nhằm buộc người thứ ba trả lại tài sản cho người thụ trái. Tố quyền này cũng được ghi nhận vào Bộ luật Dân sự Pháp (15): “Người có quyền cũng có thể, nhân danh cá nhân, khởi kiện chống lại các hành vi mà người có nghĩa vụ đã thực hiện một cách gian lận, có hại đến quyền của mình” (Điều 1167). Sự tiếp nhận các nguyên lý pháp lý này từ Luật La Mã cũng được tìm thấy trong các Bộ luật Dân sự Đức, Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Quebéc (Canada), Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan và dĩ nhiên là các Bộ luật Dân sự cũ ở Việt Nam.
Ngày nay, về học thuật người ta bàn tới việc hợp nhất lý thuyết về trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng (16). Theo pháp luật dân sự Pháp, các trách nhiệm này đều có các thành tố giống nhau, tuy nhiên khác nhau về nguồn gốc phát sinh, nên cũng khác nhau về nghĩa vụ chứng minh.
Ở Common Law, người ta quan niệm luật hợp đồng liên quan tới các thoả thuận bị ràng buộc. Vấn đề phát sinh từ đây là ràng buộc là gì. Ràng buộc có nghĩa là nếu một bên trong quan hệ hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, thì toà án, khi bên bị vi phạm yêu cầu, ấn định các điều kiện đối với bên vi phạm. Và các điều kiện này có mục đích định ra một chế tài, nhưng không phải là một hình phạt đối với bên vi phạm. Trong luật hợp đồng các chế tài được thiết kế để bồi thường, không phải để phạt (17). Trách nhiệm dân sự (civil liability) được các luật gia thuộc Common Law coi là sự chịu trách nhiệm trước tố quyền dân sự đối lập với tố quyền hình sự; tìm kiếm các chế tài tư hoặc thi hành các quyền đối nhân trên cơ sở hợp đồng, vi phạm ngoài hợp đồng (tort)(18).
Vũ Văn Mẫu khẳng định: Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người đã làm một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một người khác (19).
Từ các nghiên cứu trên đây về khái niệm trách nhiệm dân sự, có thể rút ra được một số đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau:
Trước hết, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, khác với trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích xác lập các chế tài cụ thể.
Thứ hai, trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Trách nhiệm dân sự khác với trách nhiệm hình sự ở chỗ: trách nhiệm hình sự tập trung sự chú ý vào hành vi; còn trách nhiệm dân sự tập trung sự chú ý vào thiệt hại hay hậu quả của hành vi. Do đó, trong trách nhiệm dân sự, dù có hành vi vi phạm nhưng không có sự thiệt hại, thì không dẫn tới nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên, trong trách nhiệm hình sự người ta cũng quan tâm tới hậu quả ở mức độ nhất định. Và trong trách nhiệm dân sự đôi khi người ta (ở một số nền tài phán) cũng chỉ chú ý tới hành vi trong một dạng trách nhiệm nhất định nào đó. Trách nhiệm hình sự thể hiện sự phản ứng của xã hội đối với kẻ phạm tội trên cơ sở suy diễn hành vi bị trừng phạt đó chống lại sự bình ổn chung của cộng đồng. Ngược lại, trách nhiệm dân sự không phải là sự phản ứng của xã hội đối với người vi phạm mà là sự hỗ trợ của pháp luật đối với người bị thiệt hại do vi phạm gây ra để khôi phục lại tình trạng tài chính như khi không có sự vi phạm. Vì vậy các chế tài dân sự mang tính chất tư, chứ không mang tính chất công như chế tài hình sự. Dù sao cũng có những vi phạm xảy ra làm phát sinh cả trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm lương tâm.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng. Có tác giả chia trách nhiệm ngoài hợp đồng thành trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm chuẩn dân sự phạm (20). Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện gây thiệt hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và người bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm ngoài hợp đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ, nhưng được phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc từ pháp luật. Tuy nhiên sự phân biệt có ý nghĩa trong việc chứng minh. ở đây, cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là một nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng phát sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi pháp lý. Còn nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí của đương sự, có nghĩa là do luật định. Quan niệm này có thể còn phải tranh luận, ví dụ trong hợp đồng có thể qui định về chế tài vi phạm hợp đồng, và khi hợp đồng bị vi phạm, bên vi phạm tự nguyện thi hành. Nhưng cũng có ý kiến phân tích: khi hợp đồng bị vi phạm thì người vi phạm không mong muốn phải gánh chịu chế tài như vậy. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng nếu các bên đặt ra các giải pháp và tự thi hành trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thì không dẫn tới tranh chấp pháp lý, do đó không cần thiết sự cưỡng chế thi hành. Nên đặt vấn đề nghĩa vụ trong trường hợp này ít có ý nghĩa.
II. Đặc điểm của trách nhiệm hợp đồng và ý nghĩa của việc phân biệt nó với trách nhiệm ngoài hợp đồng
Việc phân biệt giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng có một vài ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhất là trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh. Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bị đơn đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Khác hơn, trong trách nhiệm hợp đồng, nguyên đơn không phải chứng minh lỗi của bị đơn. Ngược lại, bị đơn phải chứng minh sự vi phạm hợp đồng không do lỗi của bị đơn nếu bị đơn không muốn gánh chịu chế tài.
Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, pháp luật đã đặt ra nghĩa vụ cẩn trọng tổng quát, có nghĩa là trong bất kể trường hợp nào mỗi người phải cẩn trọng. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra ý niệm về nguyên tắc này tuy không thật rõ ràng trong các Điều 9, 10 và 11. Trong đời sống xã hội, khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, mỗi người phải tôn trọng và không được xâm phạm tới lợi ích của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước và phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền dân sự của mọi người và mỗi người. Khi các quyền dân sự bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự bảo vệ hay yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Hệ quả tất yếu của các nguyên tắc này là: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 604, khoản 1, Bộ luật Dân sự 2005). Điều luật này cho thấy yếu tố lỗi là trọng yếu trong việc xác định trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên theo học thuyết rủi ro, điều kiện về lỗi bị phủ nhận. Học thuyết này cho rằng, khi một người vì hoạt động của mình tạo ra một rủi ro gây tai nạn cho một người khác, thì nạn nhân có thể đòi bồi thường mà không phải chứng minh lỗi của bị đơn (21).
Thế nhưng đối với trách nhiệm hợp đồng, có sự phức tạp riêng, trước hết bởi tính chất đa dạng của các quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Phần phân loại nghĩa vụ đã nói tới một cách phân loại có ý nghĩa rất lớn trong việc chứng minh sự vi phạm, mà Bộ luật Dân sự 2005 không đề cập tới - chỉ được đề cập tới một cách không thật sự rõ ràng trong Luật Thương mại 2005 - đó là nghĩa vụ mẫn cán trung thực và nghĩa vụ thành quả. Trong thực tiễn tư pháp của Pháp, vụ Bác sĩ Nicolas kháng vợ chồng Mercier là một vụ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những nội dung của cách thức phân loại nghĩa vụ này. Vụ việc này đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền tư pháp của Việt Nam dưới các chế độ cũ mà đã được Trần Thúc Linh và Nguyễn Văn Thọ trích dịch trong cuốn “Những án - lệ quan - trọng, Dân - luật, Luật nghĩa - vụ” xuất bản tại Viện Đại học Huế 1962.
Vợ chồng Mercier kiện đòi bác sĩ Nicolas bồi thường 200.000 franc vì thiệt hại do bác sĩ gây ra cho bà Mercier khi chữa bệnh cho bà bằng tia X mà không sử dụng các biện pháp phòng ngừa nguy hiểm (1929). Bác sĩ yêu cầu tòa sơ thẩm Marseille bác đơn vì cho rằng: kiện về tội bất cẩn gây thương tích, nên tố quyền đã hết thời hiệu ba năm theo tố tụng hình sự. Tòa Sơ thẩm, rồi đến tòa Thượng thẩm Aix (1931) đã bác lý lẽ của Nicolas và chấp nhận đơn của vợ chồng Mercier. Bác sĩ Nicolas chống án với lý do: (1) Tòa án đã coi tố quyền này là tố quyền đòi bồi thường do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, theo đó bác sĩ phải chăm sóc bệnh nhân “chuyên cần, sáng suốt và thận trọng”; (2) nhưng theo bác sĩ, thực chất sự bất cẩn của bác sĩ là một vi phạm ngoài hợp đồng bởi bác sĩ chỉ cam đoan với bệnh nhân chữa bệnh để lấy thù lao, còn không qui định điều gì rõ ràng, không có sự bảo đảm mọi tai nạn vô ý gây ra, nên tố quyền đã hết thời hiệu. Tòa Phá án đã buộc bệnh nhân phải chứng minh bác sĩ vi phạm nghĩa vụ chăm sóc bệnh nhân, tức là chứng minh lỗi của bác sĩ. Tại đây có vấn đề phát sinh là: một mặt tòa án Pháp đã công nhận giữa bác sĩ và bệnh nhân có quan hệ hợp đồng, và vi phạm của bác sĩ là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; mặt khác bệnh nhân (trái chủ) lại có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bác sĩ (người thụ trái) giống như trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (22).
Xung quanh việc phân loại nghĩa vụ này, theo Vũ Văn Mẫu, khi nguyên đơn yêu cầu bồi thường vì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, vấn đề cần xem xét trước tiên là bị đơn có thật vi phạm vào nghĩa vụ mà bị đơn phải thi hành không. Và để giải quyết được vấn đề này thì cần phải biết rõ nghĩa vụ ấy thuộc loại nào. Nếu nghĩa vụ đó là nghĩa vụ mẫn cán trung thực thì nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh như đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng là bị đơn đã phạm lỗi (23). Dĩ nhiên đối với nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ xác định, thì nguyên đơn không cần phải chứng minh lỗi của bị đơn, bởi việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã được xem là có lỗi - “lỗi hợp đồng”. Nghĩa vụ mẫn cán trung thực mà người Pháp gọi là nghĩa vụ cấp phương tiện được giải thích trên căn bản: người thụ trái cam kết sử dụng mọi phương tiện để mang lại kết quả, chứ không cam kết mang lại một kết quả cụ thể, do đó, người ta không xem đến kết quả ra sao mà chỉ xem xét tới người thụ trái đã sử dụng mọi phương tiện cần thiết hay chưa để thực hiện nghĩa vụ, và từ đó xác định có hay không sự vi phạm của người thụ trái (24).
Giải thích về sự khác biệt đối với nghĩa vụ chứng minh trong trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng (trách nhiệm vi phạm và chuẩn vi phạm), có ý kiến cho rằng: nguyên đơn trong trách nhiệm ngoài hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh, còn trong trách nhiệm hợp đồng được miễn nghĩa vụ này là do chính tính chất của nghĩa vụ. Các nghĩa vụ hợp đồng phần lớn là các nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ xác định. Vì vậy, kết quả mong đợi không đạt được do sự không thực hiện nghĩa vụ của người thụ trái, thì trái chủ có quyền yêu cầu bồi thường mà không cần phải chứng minh lỗi của người thụ trái. Ngược lại, trong vi phạm và chuẩn vi phạm, pháp luật đã dự liệu nghĩa vụ cẩn trọng tổng quát. Nên nguyên đơn muốn đòi bồi thường thì phải chứng minh lỗi của bị đơn (25). Lý giải này gợi ý cho việc hiểu sâu sắc hơn trong nghĩa vụ cần mẫn trung thực hay nghĩa vụ cấp phương tiện phát sinh do hợp đồng, nếu nguyên đơn muốn yêu cầu bồi thường cũng phải chứng minh lỗi của bị đơn.
Khác hơn các vấn đề được nghiên cứu ở đây, Luật Thương mại 2005 đã buộc bị đơn (bên vi phạm hợp đồng) phải chứng minh mình không có lỗi để được hưởng chế độ miễn trách nhiệm trong bất kể sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nào kể cả nghĩa vụ mẫn cán trung thực, mặc dù trong đạo luật này có đề cập tới việc phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán trung thực như đã trình bày ở trên. Điều 294, khoản 2 của đạo luật này qui định “bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm”. Vì vậy, việc phân biệt giữa nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán trung thực theo pháp luật Việt Nam hiện nay không có ý nghĩa thực tế.
Trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng về lý thuyết còn có sự khác biệt về một số phương diện như thẩm quyền của toà án giải quyết vụ việc, thời hiệu, phạm vi đòi bồi thường và mức độ bồi thường. Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền khác nhau của toà án đối với các vụ việc liên quan đến trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng, và quy định thời hiệu khác nhau đối với chúng, pháp luật trước kia còn quy định trách nhiệm vi phạm và chuẩn vi phạm là những loại trách nhiệm có tính cách toàn ngạch, có nghĩa là giống như trách nhiệm liên đới, có lợi cho nạn nhân bởi họ không phải kiện tất cả các người đồng phạm để bắt mỗi người bồi thường thiệt hại theo từng phần (26). Pháp luật Việt Nam hiện nay có điểm phân biệt như trên, nhưng cũng có sự xoá nhoà ranh giới giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng ở một vài điểm. Có thể lấy các ví dụ sau:
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định về nguyên tắc, toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự và thương mại là toà án nơi nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) (Điều 35, khoản 1, điểm a). Tuy nhiên, Bộ luật này còn đưa ra các qui tắc khác biệt theo sự lựa chọn của các đương sự hoặc nguyên đơn. Trong khi đó, pháp luật của các chế độ cũ ở Việt Nam có khuynh hướng qui định toà án có thẩm quyền đối với trách nhiệm dân sự phạm là toà án nơi xảy ra sự thiệt hại hoặc nơi cư sở của bị đơn, còn đối với hợp đồng thương mại là toà án nơi đã thiết lập hợp đồng hoặc nơi giao đồ vật hay nơi trả tiền (27).
Bộ luật Dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm (Điều 607) và thời hiệu khởi kiện để yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự cũng là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm (Điều 427). Thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng thương mại cũng là hai năm theo Điều 319, Luật Thương mại 2005. Riêng đối với kinh doanh dịch vụ logistics, Luật Thương mại 2005 quy định thời hiệu chín tháng kể từ ngày giao hàng (Điều 237). Thời hiệu đối với trách nhiệm hợp đồng theo Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ là 20 năm (Điều thứ 857) và theo Bộ luật Dân sự Trung Kỳ là 10 năm (Điều thứ 935). Pháp luật của các chế độ cũ của Việt Nam xây dựng theo mô hình của Pháp còn đưa ra nguyên tắc thời hiệu khởi kiện đối với trách nhiệm dân sự bị phụ thuộc vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nếu sự kiện gây ra sự tổn thất vừa có tính cách hình sự, vừa có tính cách dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 có nguyên tắc “thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời” (Điều 605), và tiếp sau quy định cụ thể: “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau” (Điều 616). Khác hơn, trong trách nhiệm hợp đồng, sự bồi thường được phân bổ đều cho những người thụ trái, trừ khi những người này cam kết rõ ràng trong hợp đồng chịu trách nhiệm liên đới (28).
Trách nhiệm dân sự là một chế định lớn, vô cùng quan trọng, và chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý phức tạp, cũng như có nhiều quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề trong đó. Nên chăng, cần có một sự nghiên cứu kỹ lưỡng hơn nữa để sửa đổi thích hợp các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và các đạo luật khác liên quan tới trách nhiệm dân sự?
Tài liệu tham khảo:
(1) Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 307.
(2) Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr. 551- 552.
(3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam - Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 45.
(4) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.347- 350.
(5) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.349- 350.
(6) Bernado M. Cremades, “Bồi thường thiệt hại theo thoả thuận trong trường hợp không thực hiện hợp đồng, điều khoản phạt vi phạm và cơ chế bồi thường thiệt hại mang tính chất răn đe trong các hợp đồng quốc tế”, Hội thảo hợp đồng thương mại quốc tế - Tham luận, Hội thảo do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 13- 14 /12/ 2004, tr. 166- 167.
(7) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr. 346- 347.
(8) Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 367- 368.
(9) Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh - Việt, tr. 174.
(10) Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp - luật lược - giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 997.
(11) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 143.
(12) Konrad Zweigert and Hein Koetz, An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, Oxford, 1998, p. 597.
(13) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 144- 148.
(14) Các luật gia cũ gọi là tố quyền truất bãi.
(15) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 149- 152.
(16) Jean- Louis Baudouin, La Responsabilité Civile, 4e édition, Les éditions Yvon Blais Inc., Quebéc (Canada), 1994, p. 16.
(17) Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead, Business Law, Made Simple Books, London, 1985, p. 156.
(18) Steven H. Gifis, Law Dictionary, Third edition, Barron’s Educational Series, INC, USA, 1991, p. 73.
(19) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 431.
(20) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 433.
(21) Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp - luật lược - giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 998.
(22) Trần Thúc Linh, Nguyễn Văn Thọ, Những án - lệ quan - trọng, Dân - luật, Luật nghĩa - vụ, Viện Đại - học Huế, 1962, tr. 44- 49.
(23) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 435.
(24) Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 106.
(25) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 457- 458.
(26) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 459.
(27) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 458.
(28) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quèc gia gi¸o dôc xuÊt b¶n, Sµi Gßn, 1963, tr. 459.
(Nghiên cứu lập pháp số 5 (142) tháng 3/2009)
TS. Ngô Huy Cương, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
I. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách nhiệm pháp lý - một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Trách nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật (1). Nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp lý giữa trái chủ và người thụ trái xác định, tại đó người thụ trái bị pháp luật cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa vụ được xem như vi phạm pháp luật. Về điểm này, Bộ luật Dân sự Pháp qui định “hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết” (Điều 1134), tức là nghĩa vụ hợp đồng cũng có giá trị như luật. Vì vậy, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả bất lợi là trách nhiệm dân sự - một loại trách nhiệm pháp lý mà, theo nghiên cứu của học giả Lê Văn Cảm, có các đặc điểm: (1) Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm; (2) Luôn luôn được thực hiện trong phạm vi quan hệ giữa Nhà nước và bên vi phạm; (3) Được xác định bằng trình tự đặc biệt do pháp luật quy định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (4) Được thực hiện trong phạm vi văn bản đã có hiệu lực pháp luật đối với người vi phạm; (5) Có thể áp dụng đối với cả pháp nhân đối với vi phạm ngoài luật hình sự (2).
Khác với quan điểm này và có phần cô đọng hơn, một số học giả khác của Việt Nam cho rằng, trách nhiệm dân sự cũng có các đặc điểm như trách nhiệm pháp lý, bao gồm: (1) chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó; (2) là một hình thức cưỡng chế nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng; và (3) luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật (3).
Có học giả cho rằng, việc phân biệt giữa trách nhiệm dân sự và trách nhiệm pháp lý cũng không ít quan điểm khác nhau, tuy nhiên nhiều ý kiến đồng nhất về các đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm dân sự là quan hệ luật tư giữa hai chủ thể độc lập có địa vị pháp lý bình đẳng, và bên vi phạm phải gánh chịu trực tiếp trước bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước hoặc người khác, trừ trường hợp chế tài vô hiệu hợp đồng do chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội;
Thứ hai, trách nhiệm dân sự bao giờ cũng là trách nhiệm tài sản;
Thứ ba, trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương xứng với hậu quả của hành vi vi phạm, tức là tương xứng với mức độ tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà người thiệt hại phải gánh chịu;
Thứ tư, trách nhiệm dân sự phải được áp dụng thống nhất và như nhau đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (4).
Khi khái quát các ý kiến chung của các luật gia về các đặc điểm của trách nhiệm dân sự như trên, người khái quát không chỉ rõ đó là ý kiến chung của các luật gia trên thế giới thuộc các họ pháp luật khác nhau hay chỉ thuộc một họ pháp luật, hay đó là ý kiến chung của các luật gia Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bản thân người khái quát như vậy cũng tự nhận thấy có quá nhiều điểm ngoại lệ với so với các đặc điểm được khái quát, chẳng hạn liên quan tới phạt vi phạm hợp đồng, tới vô hiệu hoá các hợp đồng chống lại trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Trước hết, nói tới đặc điểm thứ ba trong nghiên cứu khái quát trên. Mức độ tổn thất về tinh thần khó có thể vật chất hoá, do đó, khó có thể xác định được mức độ tương xứng về bồi thường vật chất. Nên thông thường, trong việc xâm phạm quyền nhân thân, hầu hết các nền tài phán đều kết hợp nhiều loại chế tài đối với người vi phạm mà bù đắp tổn thất chỉ là một trong số đó. Điều 611, khoản 2, Bộ luật Dân sự 2005 có nhắc tới việc bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị vi phạm, tuy nhiên không hề bày tỏ tinh thần bù đắp tương xứng với thiệt hại về tinh thần, nên tự đưa ra một giới hạn tối đa cho khoản bù đắp đó là không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, trong trường hợp các bên không thể thoả thuận được mức bồi thường.
Khi đưa ra đặc điểm thứ ba nêu trên, tác giả của nó cũng đã phân vân và lập luận rằng: (1) pháp luật có thể quy định những trường hợp ngoại lệ mà trách nhiệm dân sự không nhất thiết phải phù hợp và tương xứng với mức độ tổn thất về vật chất và /hoặc tổn thất về tinh thần do hành vi vi phạm gây ra; và (2) phạt vi phạm hợp đồng theo thoả thuận là một minh chứng cho ngoại lệ này; và (3) “tuy nhiên, điều cần lưu ý là ngay cả đối với một số dạng, loại hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm, quy tắc “phù hợp và tương xứng” vẫn được áp dụng ở mức độ nào đó”, và “điển hình là quy định về mức phạt vi phạm tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005” (5). Về các lập luận này, có thể nói ngay, chưa kể đến sự đúng sai, nhưng khác hẳn với tinh thần của Điều 301, Luật Thương mại 2005, một mức phạt không giới hạn được Bộ luật Dân sự 2005 cho phép trong Điều 422.
Tại một hội thảo quốc tế về hợp đồng thương mại quốc tế, trong phần tham luận của mình, Bernado M. Cremades nhận định: các điều khoản quy định việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp không thực hiện hợp đồng, cũng như các điều khoản phạt vi phạm là những điều khoản thông dụng trong một số loại hợp đồng quốc tế (thuê, vay, thực hiện dịch vụ định kỳ…). Ông chỉ rõ điểm khác biệt cơ bản giữa điều khoản bồi thường và điều khoản phạt ở chỗ: điều khoản phạt nhằm mục đích bảo đảm thực hiện hợp đồng, còn điều khoản bồi thường thiệt hại nhằm mục đích xác định khoản bồi thường khi một bên không thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, các nền tài phán có cách nhìn nhận rất khác nhau về điều khoản phạt. Chẳng hạn toà án Anh Quốc coi điều khoản phạt là có tính chất trừng phạt, do đó không có hiệu lực; còn điều khoản bồi thường chỉ hợp lệ khi mức bồi thường thiệt hại được các bên thoả thuận thực sự thể hiện được mức thiệt hại ước lượng do vi phạm hợp đồng, với điều kiện phải thoả mãn tiêu chí là khoản bồi thường đã được các bên đánh giá hoặc dự kiến hợp lý bù trừ công bằng cho việc không thực hiện hợp đồng hoặc khó có thể xác định được chắc chắn về mức bồi thường. Trong khi đó, một số hệ thống pháp luật lại cho phép thiết lập các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng như một biện pháp răn đe. Chẳng hạn, luật dân sự Tây Ban Nha thừa nhận chế tài kép vừa phạt vi phạm, vừa bồi thường thiệt hại (6).
Các phân tích này cho thấy, đặc điểm thứ ba của trách nhiệm dân sự được khái quát nêu trên không thoả đáng, bởi không mang tính khái quát cao. Tuy nhiên, nó cũng phần nào phản ánh được ước vọng thiết lập nên một nguyên tắc công bằng trong quan hệ hợp đồng hay quan hệ nghĩa vụ.
Phản ánh quan điểm của hầu hết các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa; “Trách nhiệm dân sự - đó là những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc áp dụng những chế tài đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm dưới hình thức tước quyền dân sự (như tước quyền sở hữu, tước quyền thừa kế…) và/hoặc bằng hình thức đặt ra cho họ những nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp phạt vi phạm hoặc trả tiền lãi đối với khoản nợ chậm trả” (7). Dường như định nghĩa này đã đồng nhất giữa trách nhiệm dân sự với chế tài dân sự, và cho rằng trách nhiệm dân sự chỉ áp dụng cho vi phạm nghĩa vụ. Trong khi đó, một số luật gia Nhật Bản phân tích: trách nhiệm được thể hiện bằng hình thức cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ đối với tài sản của người mắc nợ; tuy nhiên, có thể có trường hợp trách nhiệm không có nghĩa vụ, chẳng hạn trách nhiệm áp dụng đối với người bảo lãnh, người thứ ba sở hữu tài sản thế chấp (8). Vậy không phải bất kể trường hợp nào bị áp dụng chế tài cũng đều có sự vi phạm nghĩa vụ. Pháp luật dân sự Nhật Bản ấn định gánh nặng tương đương lên người bảo lãnh như người thụ trái chính trong trong nghĩa vụ bảo đảm. Khi có một bảo lãnh đối với một nghĩa vụ chuyển giao mà không thay thế, thì nó được xem như một điều kiện đình chỉ chuyển đổi thành nghĩa vụ chi trả bồi thường bởi sự không thực hiện nghĩa vụ chính (9).
Dưới chế độ cũ ở Việt Nam, có luật gia quan niệm: “Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà Dân luật coi như là trái luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người làm ra hành vi trái luật phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà gây tổn thiệt cho người khác” (10). Quan niệm này có phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của trách nhiệm dân sự hay không là một câu trả lời không quá khó. Tuy nhiên, đâu là điểm hợp lý của định nghĩa này và chúng phát xuất từ đâu thì cần phải tìm hiểu.
Luật La Mã xác định, ngoài các nguyên nhân hợp pháp như hợp đồng và chuẩn hợp đồng, nghĩa vụ còn phát sinh ra bởi nguyên nhân bất hợp pháp như vi phạm (delictum) và chuẩn vi phạm (quasi ex delicto). Vi phạm được chia thành hai loại là tội hình sự và dân sự phạm. Đối với dân sự phạm, nạn nhân có thể kiện ra toà xin bồi thường. Dân sự phạm (damnum injuria) là sự thiệt hại gây ra một cách bất chính đáng cho người khác, làm nghèo cho nạn nhân nhưng không làm giàu thêm cho người vi phạm (11). Vi phạm được quy định bởi luật Aquilia. Tuy nhiên các luật gia La Mã chưa bao giờ đạt tới nguyên tắc chung rằng mọi người phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình gây ra cho người khác. Mãi tới thế kỷ XVII và XVIII, nó mới được đưa ra bởi các luật gia thuộc trường phái luật tự nhiên, tiêu biểu là Grotius và Domat, rồi được ghi nhận trong các bộ luật của Châu Âu (12). Ngày nay, Bộ luật Dân sự Pháp có qui định nguyên tắc tổng quát: “Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải bồi thường thiệt hại” (Điều 1382). Tuy nhiên nhiều hệ thống pháp luật thuộc Họ pháp luật La Mã - Đức ngày nay đã tiếp nhận các thành tựu của Luật La Mã liên quan tới lỗi Aquilia, tố quyền Paulus, chuẩn vi phạm… Các vi phạm do luật Aquilia điều chỉnh bao gồm: (1) Giết bất hợp pháp nô lệ hay gia súc bốn chân; (2) một chủ nợ phụ tha cho con nợ làm thiệt hại cho chủ nợ chính; và (3) những thiệt hại nhỏ gây ra cho nô lệ hoặc gia súc. Theo luật Aquilia hành vi gây thiệt hại có hai đặc tính là bất hợp pháp và do chính người vi phạm gây ra. Chế tài đối với những vi phạm này có cả tính hình sự và dân sự như tù giam, bồi thường thiệt hại. án lệ La Mã đã chuyển hoá từ quan niệm việc làm trái pháp luật (injuria) sang lỗi (culpa). Lỗi này được xem là hành động cố ý gây thiệt hại hoặc bất cẩn đáng chê trách (lỗi Aquilia). Người La Mã lúc này đã phân biệt giữa lỗi và sự vô tình (casus). Lúc đầu thiệt hại do vi phạm gây ra được tính theo năm trước khi xảy ra thiệt hại. Lâu dần được tính toàn bộ thiệt hại, kể cả lợi tức để bồi thường. Luật La Mã tại đây đã phát hiện ra hai vấn đề pháp lý quan trọng là sự thiệt hại phát sinh và khoản lời bị mất. Hai vấn đề này được tiếp nhận vào Điều 1149, Bộ luật Dân sự Pháp (13): “Những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà họ mất và món lợi mà họ không được hưởng, ngoại trừ những biệt lệ và sửa đổi dưới đây”. Nguyên lý này cũng được phản ánh trong Điều 307, khoản 2, Bộ luật Dân sự 2005: “Trách nhiệm bồi thường về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”. Trong các dân sự phạm, theo Luật La Mã, có một vi phạm đặc biệt làm phát sinh ra tố quyền Paulus (14). Người thụ trái không có khả năng trả nợ, nếu có hành vi gian trá tẩu tán tài sản làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của mình, thì tố quyền Paulus được áp dụng. Về nguyên tắc tất cả các tài sản của con nợ là bảo đảm chung cho các chủ nợ. Nguyên tắc này đã được phản ánh vào Điều 2092, Bộ luật Dân sự Pháp rằng: “Người nào bị ràng buộc vào một nghĩa vụ cá nhân thì phải thực hiện nghĩa vụ bằng tất cả tài sản của mình, động sản và bất động sản, hiện có và sẽ có”. Do vậy, khi người thụ trái tẩu tán tài sản của mình gây thiệt hại cho trái chủ, thì tố quyền Paulus là biện pháp bảo toàn tài sản cho trái chủ bằng cách cho phép trái chủ kiện gián tiếp hành vi tẩu tán tài sản nhằm buộc người thứ ba trả lại tài sản cho người thụ trái. Tố quyền này cũng được ghi nhận vào Bộ luật Dân sự Pháp (15): “Người có quyền cũng có thể, nhân danh cá nhân, khởi kiện chống lại các hành vi mà người có nghĩa vụ đã thực hiện một cách gian lận, có hại đến quyền của mình” (Điều 1167). Sự tiếp nhận các nguyên lý pháp lý này từ Luật La Mã cũng được tìm thấy trong các Bộ luật Dân sự Đức, Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Quebéc (Canada), Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan và dĩ nhiên là các Bộ luật Dân sự cũ ở Việt Nam.
Ngày nay, về học thuật người ta bàn tới việc hợp nhất lý thuyết về trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng (16). Theo pháp luật dân sự Pháp, các trách nhiệm này đều có các thành tố giống nhau, tuy nhiên khác nhau về nguồn gốc phát sinh, nên cũng khác nhau về nghĩa vụ chứng minh.
Ở Common Law, người ta quan niệm luật hợp đồng liên quan tới các thoả thuận bị ràng buộc. Vấn đề phát sinh từ đây là ràng buộc là gì. Ràng buộc có nghĩa là nếu một bên trong quan hệ hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, thì toà án, khi bên bị vi phạm yêu cầu, ấn định các điều kiện đối với bên vi phạm. Và các điều kiện này có mục đích định ra một chế tài, nhưng không phải là một hình phạt đối với bên vi phạm. Trong luật hợp đồng các chế tài được thiết kế để bồi thường, không phải để phạt (17). Trách nhiệm dân sự (civil liability) được các luật gia thuộc Common Law coi là sự chịu trách nhiệm trước tố quyền dân sự đối lập với tố quyền hình sự; tìm kiếm các chế tài tư hoặc thi hành các quyền đối nhân trên cơ sở hợp đồng, vi phạm ngoài hợp đồng (tort)(18).
Vũ Văn Mẫu khẳng định: Trách nhiệm dân sự là một nguồn gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là nguồn gốc bất hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối với người đã làm một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một người khác (19).
Từ các nghiên cứu trên đây về khái niệm trách nhiệm dân sự, có thể rút ra được một số đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau:
Trước hết, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, khác với trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích xác lập các chế tài cụ thể.
Thứ hai, trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Trách nhiệm dân sự khác với trách nhiệm hình sự ở chỗ: trách nhiệm hình sự tập trung sự chú ý vào hành vi; còn trách nhiệm dân sự tập trung sự chú ý vào thiệt hại hay hậu quả của hành vi. Do đó, trong trách nhiệm dân sự, dù có hành vi vi phạm nhưng không có sự thiệt hại, thì không dẫn tới nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên, trong trách nhiệm hình sự người ta cũng quan tâm tới hậu quả ở mức độ nhất định. Và trong trách nhiệm dân sự đôi khi người ta (ở một số nền tài phán) cũng chỉ chú ý tới hành vi trong một dạng trách nhiệm nhất định nào đó. Trách nhiệm hình sự thể hiện sự phản ứng của xã hội đối với kẻ phạm tội trên cơ sở suy diễn hành vi bị trừng phạt đó chống lại sự bình ổn chung của cộng đồng. Ngược lại, trách nhiệm dân sự không phải là sự phản ứng của xã hội đối với người vi phạm mà là sự hỗ trợ của pháp luật đối với người bị thiệt hại do vi phạm gây ra để khôi phục lại tình trạng tài chính như khi không có sự vi phạm. Vì vậy các chế tài dân sự mang tính chất tư, chứ không mang tính chất công như chế tài hình sự. Dù sao cũng có những vi phạm xảy ra làm phát sinh cả trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm lương tâm.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng. Có tác giả chia trách nhiệm ngoài hợp đồng thành trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm chuẩn dân sự phạm (20). Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện gây thiệt hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp đồng phát sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và người bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm ngoài hợp đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ, nhưng được phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc từ pháp luật. Tuy nhiên sự phân biệt có ý nghĩa trong việc chứng minh. ở đây, cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là một nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng phát sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi pháp lý. Còn nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí của đương sự, có nghĩa là do luật định. Quan niệm này có thể còn phải tranh luận, ví dụ trong hợp đồng có thể qui định về chế tài vi phạm hợp đồng, và khi hợp đồng bị vi phạm, bên vi phạm tự nguyện thi hành. Nhưng cũng có ý kiến phân tích: khi hợp đồng bị vi phạm thì người vi phạm không mong muốn phải gánh chịu chế tài như vậy. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng nếu các bên đặt ra các giải pháp và tự thi hành trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thì không dẫn tới tranh chấp pháp lý, do đó không cần thiết sự cưỡng chế thi hành. Nên đặt vấn đề nghĩa vụ trong trường hợp này ít có ý nghĩa.
II. Đặc điểm của trách nhiệm hợp đồng và ý nghĩa của việc phân biệt nó với trách nhiệm ngoài hợp đồng
Việc phân biệt giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng có một vài ý nghĩa pháp lý quan trọng, nhất là trong việc xác định nghĩa vụ chứng minh. Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bị đơn đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Khác hơn, trong trách nhiệm hợp đồng, nguyên đơn không phải chứng minh lỗi của bị đơn. Ngược lại, bị đơn phải chứng minh sự vi phạm hợp đồng không do lỗi của bị đơn nếu bị đơn không muốn gánh chịu chế tài.
Đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng, pháp luật đã đặt ra nghĩa vụ cẩn trọng tổng quát, có nghĩa là trong bất kể trường hợp nào mỗi người phải cẩn trọng. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra ý niệm về nguyên tắc này tuy không thật rõ ràng trong các Điều 9, 10 và 11. Trong đời sống xã hội, khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, mỗi người phải tôn trọng và không được xâm phạm tới lợi ích của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước và phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền dân sự của mọi người và mỗi người. Khi các quyền dân sự bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự bảo vệ hay yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Hệ quả tất yếu của các nguyên tắc này là: “Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Điều 604, khoản 1, Bộ luật Dân sự 2005). Điều luật này cho thấy yếu tố lỗi là trọng yếu trong việc xác định trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên theo học thuyết rủi ro, điều kiện về lỗi bị phủ nhận. Học thuyết này cho rằng, khi một người vì hoạt động của mình tạo ra một rủi ro gây tai nạn cho một người khác, thì nạn nhân có thể đòi bồi thường mà không phải chứng minh lỗi của bị đơn (21).
Thế nhưng đối với trách nhiệm hợp đồng, có sự phức tạp riêng, trước hết bởi tính chất đa dạng của các quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Phần phân loại nghĩa vụ đã nói tới một cách phân loại có ý nghĩa rất lớn trong việc chứng minh sự vi phạm, mà Bộ luật Dân sự 2005 không đề cập tới - chỉ được đề cập tới một cách không thật sự rõ ràng trong Luật Thương mại 2005 - đó là nghĩa vụ mẫn cán trung thực và nghĩa vụ thành quả. Trong thực tiễn tư pháp của Pháp, vụ Bác sĩ Nicolas kháng vợ chồng Mercier là một vụ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những nội dung của cách thức phân loại nghĩa vụ này. Vụ việc này đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền tư pháp của Việt Nam dưới các chế độ cũ mà đã được Trần Thúc Linh và Nguyễn Văn Thọ trích dịch trong cuốn “Những án - lệ quan - trọng, Dân - luật, Luật nghĩa - vụ” xuất bản tại Viện Đại học Huế 1962.
Vợ chồng Mercier kiện đòi bác sĩ Nicolas bồi thường 200.000 franc vì thiệt hại do bác sĩ gây ra cho bà Mercier khi chữa bệnh cho bà bằng tia X mà không sử dụng các biện pháp phòng ngừa nguy hiểm (1929). Bác sĩ yêu cầu tòa sơ thẩm Marseille bác đơn vì cho rằng: kiện về tội bất cẩn gây thương tích, nên tố quyền đã hết thời hiệu ba năm theo tố tụng hình sự. Tòa Sơ thẩm, rồi đến tòa Thượng thẩm Aix (1931) đã bác lý lẽ của Nicolas và chấp nhận đơn của vợ chồng Mercier. Bác sĩ Nicolas chống án với lý do: (1) Tòa án đã coi tố quyền này là tố quyền đòi bồi thường do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, theo đó bác sĩ phải chăm sóc bệnh nhân “chuyên cần, sáng suốt và thận trọng”; (2) nhưng theo bác sĩ, thực chất sự bất cẩn của bác sĩ là một vi phạm ngoài hợp đồng bởi bác sĩ chỉ cam đoan với bệnh nhân chữa bệnh để lấy thù lao, còn không qui định điều gì rõ ràng, không có sự bảo đảm mọi tai nạn vô ý gây ra, nên tố quyền đã hết thời hiệu. Tòa Phá án đã buộc bệnh nhân phải chứng minh bác sĩ vi phạm nghĩa vụ chăm sóc bệnh nhân, tức là chứng minh lỗi của bác sĩ. Tại đây có vấn đề phát sinh là: một mặt tòa án Pháp đã công nhận giữa bác sĩ và bệnh nhân có quan hệ hợp đồng, và vi phạm của bác sĩ là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; mặt khác bệnh nhân (trái chủ) lại có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bác sĩ (người thụ trái) giống như trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (22).
Xung quanh việc phân loại nghĩa vụ này, theo Vũ Văn Mẫu, khi nguyên đơn yêu cầu bồi thường vì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, vấn đề cần xem xét trước tiên là bị đơn có thật vi phạm vào nghĩa vụ mà bị đơn phải thi hành không. Và để giải quyết được vấn đề này thì cần phải biết rõ nghĩa vụ ấy thuộc loại nào. Nếu nghĩa vụ đó là nghĩa vụ mẫn cán trung thực thì nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh như đối với trách nhiệm ngoài hợp đồng là bị đơn đã phạm lỗi (23). Dĩ nhiên đối với nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ xác định, thì nguyên đơn không cần phải chứng minh lỗi của bị đơn, bởi việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã được xem là có lỗi - “lỗi hợp đồng”. Nghĩa vụ mẫn cán trung thực mà người Pháp gọi là nghĩa vụ cấp phương tiện được giải thích trên căn bản: người thụ trái cam kết sử dụng mọi phương tiện để mang lại kết quả, chứ không cam kết mang lại một kết quả cụ thể, do đó, người ta không xem đến kết quả ra sao mà chỉ xem xét tới người thụ trái đã sử dụng mọi phương tiện cần thiết hay chưa để thực hiện nghĩa vụ, và từ đó xác định có hay không sự vi phạm của người thụ trái (24).
Giải thích về sự khác biệt đối với nghĩa vụ chứng minh trong trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng (trách nhiệm vi phạm và chuẩn vi phạm), có ý kiến cho rằng: nguyên đơn trong trách nhiệm ngoài hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh, còn trong trách nhiệm hợp đồng được miễn nghĩa vụ này là do chính tính chất của nghĩa vụ. Các nghĩa vụ hợp đồng phần lớn là các nghĩa vụ thành quả hay nghĩa vụ xác định. Vì vậy, kết quả mong đợi không đạt được do sự không thực hiện nghĩa vụ của người thụ trái, thì trái chủ có quyền yêu cầu bồi thường mà không cần phải chứng minh lỗi của người thụ trái. Ngược lại, trong vi phạm và chuẩn vi phạm, pháp luật đã dự liệu nghĩa vụ cẩn trọng tổng quát. Nên nguyên đơn muốn đòi bồi thường thì phải chứng minh lỗi của bị đơn (25). Lý giải này gợi ý cho việc hiểu sâu sắc hơn trong nghĩa vụ cần mẫn trung thực hay nghĩa vụ cấp phương tiện phát sinh do hợp đồng, nếu nguyên đơn muốn yêu cầu bồi thường cũng phải chứng minh lỗi của bị đơn.
Khác hơn các vấn đề được nghiên cứu ở đây, Luật Thương mại 2005 đã buộc bị đơn (bên vi phạm hợp đồng) phải chứng minh mình không có lỗi để được hưởng chế độ miễn trách nhiệm trong bất kể sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nào kể cả nghĩa vụ mẫn cán trung thực, mặc dù trong đạo luật này có đề cập tới việc phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán trung thực như đã trình bày ở trên. Điều 294, khoản 2 của đạo luật này qui định “bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm”. Vì vậy, việc phân biệt giữa nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán trung thực theo pháp luật Việt Nam hiện nay không có ý nghĩa thực tế.
Trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng về lý thuyết còn có sự khác biệt về một số phương diện như thẩm quyền của toà án giải quyết vụ việc, thời hiệu, phạm vi đòi bồi thường và mức độ bồi thường. Bên cạnh việc quy định về thẩm quyền khác nhau của toà án đối với các vụ việc liên quan đến trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng, và quy định thời hiệu khác nhau đối với chúng, pháp luật trước kia còn quy định trách nhiệm vi phạm và chuẩn vi phạm là những loại trách nhiệm có tính cách toàn ngạch, có nghĩa là giống như trách nhiệm liên đới, có lợi cho nạn nhân bởi họ không phải kiện tất cả các người đồng phạm để bắt mỗi người bồi thường thiệt hại theo từng phần (26). Pháp luật Việt Nam hiện nay có điểm phân biệt như trên, nhưng cũng có sự xoá nhoà ranh giới giữa trách nhiệm hợp đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng ở một vài điểm. Có thể lấy các ví dụ sau:
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định về nguyên tắc, toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự và thương mại là toà án nơi nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) (Điều 35, khoản 1, điểm a). Tuy nhiên, Bộ luật này còn đưa ra các qui tắc khác biệt theo sự lựa chọn của các đương sự hoặc nguyên đơn. Trong khi đó, pháp luật của các chế độ cũ ở Việt Nam có khuynh hướng qui định toà án có thẩm quyền đối với trách nhiệm dân sự phạm là toà án nơi xảy ra sự thiệt hại hoặc nơi cư sở của bị đơn, còn đối với hợp đồng thương mại là toà án nơi đã thiết lập hợp đồng hoặc nơi giao đồ vật hay nơi trả tiền (27).
Bộ luật Dân sự 2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm (Điều 607) và thời hiệu khởi kiện để yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự cũng là hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm (Điều 427). Thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng thương mại cũng là hai năm theo Điều 319, Luật Thương mại 2005. Riêng đối với kinh doanh dịch vụ logistics, Luật Thương mại 2005 quy định thời hiệu chín tháng kể từ ngày giao hàng (Điều 237). Thời hiệu đối với trách nhiệm hợp đồng theo Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ là 20 năm (Điều thứ 857) và theo Bộ luật Dân sự Trung Kỳ là 10 năm (Điều thứ 935). Pháp luật của các chế độ cũ của Việt Nam xây dựng theo mô hình của Pháp còn đưa ra nguyên tắc thời hiệu khởi kiện đối với trách nhiệm dân sự bị phụ thuộc vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nếu sự kiện gây ra sự tổn thất vừa có tính cách hình sự, vừa có tính cách dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 có nguyên tắc “thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời” (Điều 605), và tiếp sau quy định cụ thể: “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau” (Điều 616). Khác hơn, trong trách nhiệm hợp đồng, sự bồi thường được phân bổ đều cho những người thụ trái, trừ khi những người này cam kết rõ ràng trong hợp đồng chịu trách nhiệm liên đới (28).
Trách nhiệm dân sự là một chế định lớn, vô cùng quan trọng, và chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý phức tạp, cũng như có nhiều quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề trong đó. Nên chăng, cần có một sự nghiên cứu kỹ lưỡng hơn nữa để sửa đổi thích hợp các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và các đạo luật khác liên quan tới trách nhiệm dân sự?
Tài liệu tham khảo:
(1) Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 307.
(2) Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, tr. 551- 552.
(3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam - Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 45.
(4) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.347- 350.
(5) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.349- 350.
(6) Bernado M. Cremades, “Bồi thường thiệt hại theo thoả thuận trong trường hợp không thực hiện hợp đồng, điều khoản phạt vi phạm và cơ chế bồi thường thiệt hại mang tính chất răn đe trong các hợp đồng quốc tế”, Hội thảo hợp đồng thương mại quốc tế - Tham luận, Hội thảo do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 13- 14 /12/ 2004, tr. 166- 167.
(7) Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr. 346- 347.
(8) Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 367- 368.
(9) Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh - Việt, tr. 174.
(10) Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp - luật lược - giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 997.
(11) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 143.
(12) Konrad Zweigert and Hein Koetz, An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, Oxford, 1998, p. 597.
(13) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 144- 148.
(14) Các luật gia cũ gọi là tố quyền truất bãi.
(15) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 149- 152.
(16) Jean- Louis Baudouin, La Responsabilité Civile, 4e édition, Les éditions Yvon Blais Inc., Quebéc (Canada), 1994, p. 16.
(17) Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead, Business Law, Made Simple Books, London, 1985, p. 156.
(18) Steven H. Gifis, Law Dictionary, Third edition, Barron’s Educational Series, INC, USA, 1991, p. 73.
(19) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 431.
(20) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 433.
(21) Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp - luật lược - giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 998.
(22) Trần Thúc Linh, Nguyễn Văn Thọ, Những án - lệ quan - trọng, Dân - luật, Luật nghĩa - vụ, Viện Đại - học Huế, 1962, tr. 44- 49.
(23) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 435.
(24) Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 106.
(25) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 457- 458.
(26) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 459.
(27) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 458.
(28) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quèc gia gi¸o dôc xuÊt b¶n, Sµi Gßn, 1963, tr. 459.
(Nghiên cứu lập pháp số 5 (142) tháng 3/2009)
TS. Ngô Huy Cương, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
LUẬT BẮC VIỆT ( BVL LAWFIFM)
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
-------------------------------------------
Liên hệ với Luật sư :
P: 0938188889 - 0913753918
M: ceo@bacvietluat.vn – lawyer.@bacvietluat.vn
|
Bình luận
Bình luận bằng Facebook