Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên
Ước tính mỗi năm trên thế giới có hàng triệu người chưa thành niên (NCTN) phạm tội. Ước tính mỗi năm trên thế giới có hàng triệu người chưa thành niên (NCTN) phạm tội. Ở tất cả các quốc gia, vấn đề NCTN vi phạm pháp luật hoặc bị xâm hại bởi các hành vi phạm tội luôn là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp toàn diện.
Trong hệ thống tư pháp NCTN, hệ thống điều tra thân thiện với NCTN được nhiều nước quan tâm trên cả ba lĩnh vực: luật pháp, việc thực thi của các cơ quan chuyên trách và các dịch vụ hỗ trợ.
I. Các chuẩn mực quốc tế về điều tra thân thiện
Một số quy chuẩn đã được cộng đồng quốc tế (trong đó có nước ta) chấp thuận. Các quy chuẩn này dựa trên sự thừa nhận trẻ em (theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em là người dưới 18 tuổi) cần được hưởng sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt phù hợp với độ tuổi, với giai đoạn phát triển và với các nhu cầu cá nhân đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ các quyền của trẻ em (TE). Công ước quốc tế quan trọng nhất là Công ước về quyền trẻ em. Một số quy chuẩn quốc tế khác tuy có thể có hoặc có thể không có tính ràng buộc pháp lý đối với Việt Nam, nhưng chúng lại có vai trò hướng dẫn cho việc giải quyết vấn đề TE/NCTN có liên quan tới các vụ án hình sự, bất kể TE là nạn nhân, nhân chứng hay người vi phạm trong vụ án đó.
Một số văn bản quốc tế chính liên quan tới vấn đề trên bao gồm:
- Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989)
- Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về Tư pháp người chưa thành niên (1985)
- Bộ quy tắc ứng xử cho các nhân viên thực thi pháp luật (1979)
- Hướng dẫn phòng, chống tội phạm ở người chưa thành niên (1990)
- Quy tắc về bảo vệ NCTN bị tước đoạt quyền tự do (1990)
- Hướng dẫn của Liên hợp quốc về các vấn đề tư pháp liên quan tới nạn nhân và nhân chứng trẻ em (2005)
- Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mãi dâm TE và văn hóa phẩm khiêu dâm TE.
Điều 3 của Công ước về quyền trẻ em (CRC) có khẳng định mọi hành động liên quan đến trẻ em, trong đó có bao gồm việc điều tra của cảnh sát tới trẻ em, các quyền lợi chính đáng của trẻ phải được xem xét đầu tiên.
CRC (Điều 32-36) cũng đặt ra một số yêu cầu trong việc bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức xâm hại gây tổn hại tới các quyền lợi của TE, các hình thức lạm dụng hoặc ngược đãi.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp người chưa thành niên (Điều 2, 3) khẳng định nhu cầu lập ra các quy định và điều luật nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người vi phạm (NCTN) trong khi vẫn đảm bảo các quyền cơ bản của chúng. Những điều luật này cũng có thể được lập ra nhằm hướng dẫn công tác điều tra các vụ việc liên quan tới TE/NCTN.
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về các vấn đề tư pháp liên quan đến nạn nhân, nhân chứng trẻ em đưa ra khái niệm nhạy cảm với trẻ em là phương thức tiếp cận cân bằng quyền được bảo vệ của TE và cân nhắc các nhu cầu, quan điểm cá nhân của TE. Do đó điều tra nhạy cảm (còn gọi là điều tra thân thiện) với TE được hiểu là phương thức điều tra được tiến hành theo những nguyên tắc chuẩn mực quốc tế, cân nhắc nhu cầu và quan điểm của trẻ, cân bằng quyền được bảo vệ của trẻ với luật pháp quốc gia và nhu cầu cộng đồng.
Điều 40 của Công ước quyền trẻ em nêu ra nguyên tắc chung:
Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng.
Nguyên tắc chung này là kim chỉ nam cho việc tiến hành điều tra các vụ việc liên quan tới TE/NCTN. Quyền lợi cơ bản nhất của trẻ là một yếu tố trong các quyết định của cảnh sát liên quan tới một cuộc điều tra. Các quy định cụ thể bao gồm:
- Việc điều tra phải thực hiện trên cơ sở TE/NCTN phải được coi là vô tội cho tới khi luật pháp chứng minh được chúng có tội.
- Cấm mọi hình thức đe dọa, vũ lực hoặc làm trẻ sợ hãi.
- Công tác quan hệ với nạn nhân, nhân chứng được cải thiện tốt hơn sẽ khiến trẻ và gia đình sẵn sàng khai báo những vụ ngược đãi và ủng hộ hơn cho hệ thống tư pháp.
- Cần đối xử nhạy cảm và quan tâm chăm sóc đến nạn nhân, nhân chứng trẻ em, cân nhắc nhu cầu, độ tuổi, giới tính, mức độ trưởng thành của các em, tôn trọng sự toàn vẹn thể chất, tinh thần và đạo đức của các em.
- Không được ép cung TE/NCTN, ép chúng nhận tội dưới bất kỳ hình thức nào. Các phương pháp lừa gạt và mọi hình thức đe dọa tâm lý có thể được hoặc có thể không được cho phép trong quá trình lấy cung một nghi phạm người lớn sẽ không được sử dụng trong các vụ việc liên quan tới TE/NCTN.
- Nhân viên thực thi luật pháp không được áp dụng, xúi giục hoặc cho phép mọi hành động tra tấn hoặc các hành động dã man, vô nhân đạo hoặc thô bạo khác.
- Quá trình tố tụng phải được tiến hành không chậm trễ; trong các trường hợp một trẻ bị giam giữ trong quá trình điều tra, cần nhanh chóng kết thúc quá trình điều tra mà không sợ ảnh hưởng tới kết quả.
- Trong trường hợp cần thiết, cần có người phiên dịch để đảm bảo quá trình điều tra được công bằng và các tuyên bố và thú nhận của người vi phạm không bị hiểu sai. Trẻ cũng có quyền yêu cầu một người phiên dịch khi cần để giao tiếp với đại diện của mình.
- TE/NCTN phải được báo tin trực tiếp và nhanh chóng về các cáo buộc chống lại chúng ngay khi một cuộc điều tra về các cáo buộc đó được tiến hành.
- Quyền tự do cá nhân của trẻ cần được tôn trọng trong suốt quá trình điều tra và các quy trình tố tụng khác.
- TE/NCTN có quyền được bào chữa và được hưởng sự trợ giúp pháp lý và các hình thức biện hộ khác trong quá trình chuẩn bị và đưa ra lời biện hộ của mình. Trẻ em và người đại diện của chúng có quyền đối chứng và quyền đưa nhân chứng khác đại diện cho chúng. Quyền này buộc cảnh sát phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho trẻ về những chứng cứ chống lại chúng và các thông tin liên quan khác mà cảnh sát thu thập được trong quá trình điều tra.
II. Pháp luật Việt Nam
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quyền trẻ em. Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, làm hài hòa giữa hệ thống chính sách, pháp luật của quốc gia với các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em nói chung và bảo vệ NCTN vi phạm pháp luật, trẻ em là nạn nhân, nhân chứng của tội phạm trong quá trình điều tra nói riêng.
Hiện nay, việc điều tra vụ án liên quan đến TE/NCTN chủ yếu dựa vào những quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong đó có những quy định liên quan đến công tác điều tra theo hướng thân thiện. Cụ thể như:
- Xác định độ tuổi: Việc xác định độ tuổi của NCTN có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của họ, vì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên mới được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Việc xác định tuổi của NCTN phạm tội còn có ý nghĩa trong việc áp dụng đường lối xử lý và thủ tục tố tụng đối với họ. Như vậy, trẻ em dưới 14 tuổi vi phạm pháp luật sẽ không bị xử lý theo pháp luật hình sự.
- Trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội: Việc xác định trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN là nhằm xác định chính xác lỗi của NCTN. Muốn xác định những yếu tố này, cần lấy lời khai của cha mẹ, cô giáo, bạn bè của NCTN, nhận xét của tổ dân phố, đoàn thanh niên; các tài liệu y tế, kêt luận giám định cũng hết sức cần thiết trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của NCTN;
- Điều kiện sinh sống và giáo dục: Việc hiểu điều kiện sinh sống và giáo dục của NCTN có thể làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Đồng thời, muốn tìm được giải pháp xử lý thích hợp nhất đối với NCTN, không thể không tìm hiểu điều kiện sinh sống và giáo dục của các em;
- Có hay không có sự xúi giục của người thành niên: Việc xác định xem hành vi phạm tội của NCTN có chịu sự chi phối của người thành niên hay không có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nguyên nhân phạm tội của NCTN, góp phần đánh giá chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do họ thực hiện và tạo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tìm giải pháp xử lý thích hợp đối với NCTN.
- Áp các biện pháp ngăn chặn không tước tự do:
+ Giám sát, biện pháp đặc thù đối với bị can chưa thành niên: Cơ quan điều tra có thể ra quyết định giao bị can chưa thành niên cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập (Điều 304 BLTTHS)
+ Cấm đi khỏi nơi cư trú: Được áp dụng đối với bị can chưa thành niên có nơi cư trú rõ ràng. Bị can chưa thành niên phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nới cư trú, có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập (Điều 91 BLTTHS);
+ Bảo lãnh: Người thân thích của bị can chưa thành niên (ít nhất là hai người), tổ chức mà bị can chưa thành niên là thành viên có thể nhận bảo lãnh cho bị can chưa thành niên. Khi nhận bảo lãnh, cá nhân, tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập. Đây là một biện pháp ngăn chặn để thay thế cho biện pháp tạm giam (Điều 92 BLTTHS);
+ Đặt tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm: Cơ quan điều tra có thể cho bị can chưa thành niên đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Đây cũng là một biện pháp ngăn chặn để thay thế cho biện pháp tạm giam (Điều 93 BLTTHS).
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn tước tự do: Điều kiện bắt, tạm giữ, tạm giam (Điều 88, Điều 303 BLTTHS): Do phạm vi trách nhiệm hình sự của NCTN hạn hẹp hơn so với người thành niên, phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tước tự do của đối tượng này cũng hạn hẹp hơn. NCTN phạm tội chỉ có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp sau đây:
+ Người từ 14 - dưới 16 tuổi: phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
+ Người từ 16-18 tuổi: (1) phạm tội nghiêm trọng do cố ý mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội mới (2) phạm tội rất nghiêm trọng; hoặc (3) phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Cần lưu ý, BLTTHS không quy định những trường hợp cần áp dụng các biện pháp tạm giam mà chỉ quy định những trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam. Đặc biệt BLTTHS 2003 có quy định hai biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam là bảo lãnh và đặt tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm. Do vậy theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, đồng theo nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, ngay cả khi bị can chưa thành niên thuộc trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam, thì vẫn có thể cho phép người đó tại ngoại trên cơ sở áp dụng một trong hai biện pháp này. NCTN chỉ có thể bị tạm giam nếu xét thấy việc áp dụng những biện pháp trên vẫn không đủ hiệu quả để ngăn chặn người đó bỏ trốn, phạm tội mới, tiêu hủy chứng cứ hoặc có hành vi khác ngăn cản việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Đình chỉ điều tra.
Theo quy định tại Điều 164 khoản 2 điểm a BLTTHS, trong trường hợp NCTN phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục, thì cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra.
Đây là con đường quan trọng nhằm chuyển NCTN phạm tội ra khỏi hệ thống xử lý hình sự để xử lý bằng biện pháp giám sát, giáo dục tại cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay quy định này chưa được áp dụng một cách thường xuyên trong thực tiễn do nhiều nguyên nhân. Trong số những nguyên nhân này, có thể kể đến việc thiếu hướng dẫn cụ thể và thiếu cơ chế hỗ trợ để gia đình tổ chức xã hội có thể giám sát, giáo dục NCTN được đình chỉ điều tra trong trường hợp này một cách hiệu quả, bảo đảm rằng các em thực sự nhận thức được lỗi lầm của mình và sẽ không tái phạm.
- Lấy lời khai: theo quy định của BLTTHS, việc lấy lời khai của NCTN phải bảo đảm một số yêu cầu sau:
+ Trước khi hỏi cung phải đọc quyết định khởi tố, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can;
+ Trình bày lời khai là quyền của bị can, nghiêm cấm dùng nhục hình;
+ Khi lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là NCTN có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, bắt buộc phải có sự hiện diện của đại diện gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng (Điều 306 BLTTHS).
Ngoài ra, nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em (Điều 5 Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em) đòi hỏi điều tra viên khi lấy lời khai của NCTN phải cân nhắc để tìm ra phương thức và có thái độ thích hợp, trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm, phẩm giá của các em và chú ý tới nhu cầu bảo vệ đặc biệt của NCTN.
- Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội:
+ Đại diện của gia đình, thầy cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức khác, có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 306 khoản 1);
+ Đại diện gia đình có quyền tham gia khi lấy lời khai của NCTN từ 14-dưới 16 tuổi hoặc NCTN có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Đại diện của gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý, được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra (Điều 306 khoản 2).
- Yêu cầu đối với điều tra viên trong vụ án NCTN: Điều 302 khoản 1 BLTTHS quy định điều tra viên trong những vụ án NCTN phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN. Những yêu cầu này đều nhằm bảo đảm rằng những người tiến hành tố tụng khi tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, chưa thành niên sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý, cảm thông với các em, tìm được phương thức hợp lý để khơi gợi, thúc đẩy sự hợp tác của các em trong quá trình làm sáng tỏ sự thực khách quan của vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý của các em trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như trong quá trình tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các em nhận thức lỗi lầm, cải tạo và phục hồi.
- Bảo đảm các quyền của người bị tạm giữ, bị can là NCTN:
+ Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do thân thể của công dân phải có quyết định của người có thẩm quyền và theo thủ tục luật định, mọi hình thức truy bức, nhục hình đều bị nghiêm cấm;
+ Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín: Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín của công dân phải theo đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định;
+ Quyền được suy đoán vô tội: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Điều 9). Trong quá trình điều tra, phải luôn luôn đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như những người vô tội. Do được giả định vô tội cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh rằng mình vô tội (mặc dù họ có quyền làm như vậy). Trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 10 BLTTHS);
+ Quyền bào chữa: Người bị tạm giữ, bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; cơ quan điều tra có nhiệm vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình (Điều 11 BLTTHS);
+ Quyền bình đẳng trước pháp luật: Mọi công dân không biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, địa vị, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội đều bình đẳng trước pháp luật và bất cứ người phạm tội nào cũng đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 5 BLTTHS). Nguyên tắc này nhằm bảo đảm loại trừ khả năng khởi tố, truy tố, kết án vì lý do phân biệt đối xử;
+ Quyền biết lý do buộc tội: Người bị tạm giữ có quyền biết lý do mình bị tạm giữ (được nhận quyết định tạm giữ trong đó nêu rõ lý do tạm giữ); bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì (được nhận quyết định khởi tố);
+ Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: Để hoạt động tố tụng hình sự đạt được hiệu quả cao, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can thì trước mỗi hoạt động hoặc hành vi tố tụng, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải giải thích cho họ biết họ có những quyền và nghĩa vụ gì. Cụ thể, người thi hành lệnh bắt, người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền, nghĩa vụ cho người bị bắt, người bị tạm giữ; khi giao quyết định khởi tố bị can, phải giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can; điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can trước khi hỏi cung.
+ Quyền trình bày lời khai: Xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, trình bày lời khai là quyền của người bị tạm giữ và bị can chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy họ có quyền sử dụng hoặc không sử dụng quyền năng tố tụng đó và pháp luật không thể coi đó là tình tiết làm xấu đi tình trạng của họ. Để khuyến khích họ khai báo đúng sự thật, Điều 46 BLHS quy định “thành khẩn khai báo” là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu những người này khai báo không thành khẩn hoặc không chịu khai báo thì pháp luật không coi đó là tình tiết tăng nặng. Đặc biệt, việc mớm cung hoặc truy bức, dùng nhục hình để buộc người bị tạm giữ, bị can khai báo, bị nghiêm cấm theo quy định của Điều 6 BLTTHS và người có những hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình và/hoặc tội bức cung (các Điều 298, 299 BLHS).
Tóm lại, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương đối đầy đủ về công tác điều tra các vụ án liên quan đến TE/NCTN theo hướng bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho TE/NCTN. Tuy vậy, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận các quy định đó còn nhiều khuyếm khuyết, đặc biệt là thiếu hướng dẫn cụ thể và các điều kiện bảo đảm.
III. Một số đề xuât nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống điều tra thân thiện TE/NCTN.
1. Sự cần thiết phải áp dụng phương pháp điều tra thân thiện trong các vụ án liên quan đến TE/NCTN:
Thực tế điều tra cho thấy, trẻ em vi phạm pháp luật thường do nhận thức xã hội và pháp luật còn hạn chế, bồng bột, thiếu kiềm chế trước tác động của ngoại cảnh, thiếu kỹ năng ứng xử, nhiều trường hợp không phân biệt được đúng sai và hậu quả hành động của mình đối với người khác. Trẻ em bị xâm hại do tuổi còn nhỏ nên rất dễ bị tổn thương, nhiều khi không hiểu được những gì đã diễn ra với mình; không dám hoặc không thể kể lại sự việc đã xảy ra; không hiểu được ngôn ngữ phức tạp, đặc biệt là những từ ngữ luật.
Khi phải tiếp xúc với công an thì phong cách, tấm gương cụ thể của người cán bộ cảnh sát làm việc với trẻ em mà trẻ em quan sát được có ảnh hướng rất lớn đến tư tưởng, nhận thức và tình cảm của trẻ em theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Vì vậy, điều tra thân thiện với TE/NCTN sẽ bảo đảm lợi ích tốt nhất cho TE/NCTN, tạo cơ hội cho trẻ hòa nhập cộng đồng, mặt khác còn giúp cho việc thu thập thông tin về vụ án được đầy đủ, chính xác, công tác điều tra sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn.
2. Bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công tác điều tra vụ án liên quan đên TE/NCTN theo hướng thân thiện.
- Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định đối với NCTN phạm tội trong BLHS theo hướng tăng cường việc áp dụng xử lý chuyển hướng (thay thế truy cứu trách nhiệm hình sự); việc giam giữ NCTN vi phạm pháp luật (tước tự do) chỉ là biện pháp cuối cùng khi không còn sự lựa chọn nào khác;
- Cần xây dựng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt đối với các vụ án NCTN trên cơ sở bảo đảm lợi ích tốt nhất của NCTN và khả năng sửa chữa lỗi lầm, tái hòa nhập cộng đồng của họ.
3. Xây dựng quy trình điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến TE/NCTN theo hướng thân thiện
- Trong khi chờ sửa đổi BLHS, BLTTHS, các cơ quan liên quan cần nghiên cứu ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến TE/NCTN nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến NCTN trong BLHS và BLTTHS;
- Trên cơ sở thông tư nói trên, Bộ Công an xây dựng quy trình điều tra, xử lý các vụ án liên quan đến NCTN theo hướng thân thiện để hướng dẫn thống nhất cho cơ quan điều tra các cấp thực hiện.
4. Xây dựng môi trường thân thiện với TE/NCTN trong quá trình điều tra
- Mở rộng việc xây dựng các phòng điều tra thân thiện với TE/NCTN (như các mô hình thí điểm tại Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Đồng Tháp, TP Hồ Chí Minh do Cục Cảnh sát điều tra tội phạm hình sự và Unicef hướng dẫn và hỗ trợ trang thiết bị);
- Khi chưa có các phòng điều tra thân thiện thì phòng lấy lời khai, hỏi cung TE/NCTN cũng cần bố trí bàn ghế và các trang thiết bị sao cho TE/NCTN cảm thấy thoải mái hơn;
- Lấy lời khai tại nhà của TE/NCTN thay vì tại cơ quan điều tra bất cứ khi nào có thể và phù hợp;
- Cảnh sát khi lấy lời khai của TE/NCTN nên mặc thường phục để các em khỏi cảm thấy sợ sệt;
- Cải thiện điều kiện nơi giam, giữ TE/NCTN vi phạm pháp luật (chỗ ở, điều kiện sinh hoạt…).
5. Nâng cao năng lực cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến TE/NCTN.
- Thành lập các đơn vị cảnh sát chuyên trách để giải quyết các vấn đề liên quan đến TE/NCTN vi phạm pháp luật;
- Biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cho lực lượng cảnh sát thường xuyên tiếp xúc, làm việc với TE/NCTN vi phạm pháp luật, nhằm nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng của lực lượng cảnh sát nói chung, cảnh sát điều tra nói riêng khi điều tra, giải quyết các trường hợp NCTN vi phạm pháp luật, trẻ em là nạn nhân, nhân chứng trong các vụ án.
6. Tăng cường thanh tra, giám sát các hoạt động điều tra liên quan đến TE/NCTN nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật, các hướng dẫn liên quan về điều tra, xử lý các vụ án liên quan đến TE/NCTN được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.
TG.Phạm Văn Hùng
Trong hệ thống tư pháp NCTN, hệ thống điều tra thân thiện với NCTN được nhiều nước quan tâm trên cả ba lĩnh vực: luật pháp, việc thực thi của các cơ quan chuyên trách và các dịch vụ hỗ trợ.
I. Các chuẩn mực quốc tế về điều tra thân thiện
Một số quy chuẩn đã được cộng đồng quốc tế (trong đó có nước ta) chấp thuận. Các quy chuẩn này dựa trên sự thừa nhận trẻ em (theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em là người dưới 18 tuổi) cần được hưởng sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt phù hợp với độ tuổi, với giai đoạn phát triển và với các nhu cầu cá nhân đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ các quyền của trẻ em (TE). Công ước quốc tế quan trọng nhất là Công ước về quyền trẻ em. Một số quy chuẩn quốc tế khác tuy có thể có hoặc có thể không có tính ràng buộc pháp lý đối với Việt Nam, nhưng chúng lại có vai trò hướng dẫn cho việc giải quyết vấn đề TE/NCTN có liên quan tới các vụ án hình sự, bất kể TE là nạn nhân, nhân chứng hay người vi phạm trong vụ án đó.
Một số văn bản quốc tế chính liên quan tới vấn đề trên bao gồm:
- Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989)
- Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về Tư pháp người chưa thành niên (1985)
- Bộ quy tắc ứng xử cho các nhân viên thực thi pháp luật (1979)
- Hướng dẫn phòng, chống tội phạm ở người chưa thành niên (1990)
- Quy tắc về bảo vệ NCTN bị tước đoạt quyền tự do (1990)
- Hướng dẫn của Liên hợp quốc về các vấn đề tư pháp liên quan tới nạn nhân và nhân chứng trẻ em (2005)
- Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mãi dâm TE và văn hóa phẩm khiêu dâm TE.
Điều 3 của Công ước về quyền trẻ em (CRC) có khẳng định mọi hành động liên quan đến trẻ em, trong đó có bao gồm việc điều tra của cảnh sát tới trẻ em, các quyền lợi chính đáng của trẻ phải được xem xét đầu tiên.
CRC (Điều 32-36) cũng đặt ra một số yêu cầu trong việc bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức xâm hại gây tổn hại tới các quyền lợi của TE, các hình thức lạm dụng hoặc ngược đãi.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp người chưa thành niên (Điều 2, 3) khẳng định nhu cầu lập ra các quy định và điều luật nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người vi phạm (NCTN) trong khi vẫn đảm bảo các quyền cơ bản của chúng. Những điều luật này cũng có thể được lập ra nhằm hướng dẫn công tác điều tra các vụ việc liên quan tới TE/NCTN.
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về các vấn đề tư pháp liên quan đến nạn nhân, nhân chứng trẻ em đưa ra khái niệm nhạy cảm với trẻ em là phương thức tiếp cận cân bằng quyền được bảo vệ của TE và cân nhắc các nhu cầu, quan điểm cá nhân của TE. Do đó điều tra nhạy cảm (còn gọi là điều tra thân thiện) với TE được hiểu là phương thức điều tra được tiến hành theo những nguyên tắc chuẩn mực quốc tế, cân nhắc nhu cầu và quan điểm của trẻ, cân bằng quyền được bảo vệ của trẻ với luật pháp quốc gia và nhu cầu cộng đồng.
Điều 40 của Công ước quyền trẻ em nêu ra nguyên tắc chung:
Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội, hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng.
Nguyên tắc chung này là kim chỉ nam cho việc tiến hành điều tra các vụ việc liên quan tới TE/NCTN. Quyền lợi cơ bản nhất của trẻ là một yếu tố trong các quyết định của cảnh sát liên quan tới một cuộc điều tra. Các quy định cụ thể bao gồm:
- Việc điều tra phải thực hiện trên cơ sở TE/NCTN phải được coi là vô tội cho tới khi luật pháp chứng minh được chúng có tội.
- Cấm mọi hình thức đe dọa, vũ lực hoặc làm trẻ sợ hãi.
- Công tác quan hệ với nạn nhân, nhân chứng được cải thiện tốt hơn sẽ khiến trẻ và gia đình sẵn sàng khai báo những vụ ngược đãi và ủng hộ hơn cho hệ thống tư pháp.
- Cần đối xử nhạy cảm và quan tâm chăm sóc đến nạn nhân, nhân chứng trẻ em, cân nhắc nhu cầu, độ tuổi, giới tính, mức độ trưởng thành của các em, tôn trọng sự toàn vẹn thể chất, tinh thần và đạo đức của các em.
- Không được ép cung TE/NCTN, ép chúng nhận tội dưới bất kỳ hình thức nào. Các phương pháp lừa gạt và mọi hình thức đe dọa tâm lý có thể được hoặc có thể không được cho phép trong quá trình lấy cung một nghi phạm người lớn sẽ không được sử dụng trong các vụ việc liên quan tới TE/NCTN.
- Nhân viên thực thi luật pháp không được áp dụng, xúi giục hoặc cho phép mọi hành động tra tấn hoặc các hành động dã man, vô nhân đạo hoặc thô bạo khác.
- Quá trình tố tụng phải được tiến hành không chậm trễ; trong các trường hợp một trẻ bị giam giữ trong quá trình điều tra, cần nhanh chóng kết thúc quá trình điều tra mà không sợ ảnh hưởng tới kết quả.
- Trong trường hợp cần thiết, cần có người phiên dịch để đảm bảo quá trình điều tra được công bằng và các tuyên bố và thú nhận của người vi phạm không bị hiểu sai. Trẻ cũng có quyền yêu cầu một người phiên dịch khi cần để giao tiếp với đại diện của mình.
- TE/NCTN phải được báo tin trực tiếp và nhanh chóng về các cáo buộc chống lại chúng ngay khi một cuộc điều tra về các cáo buộc đó được tiến hành.
- Quyền tự do cá nhân của trẻ cần được tôn trọng trong suốt quá trình điều tra và các quy trình tố tụng khác.
- TE/NCTN có quyền được bào chữa và được hưởng sự trợ giúp pháp lý và các hình thức biện hộ khác trong quá trình chuẩn bị và đưa ra lời biện hộ của mình. Trẻ em và người đại diện của chúng có quyền đối chứng và quyền đưa nhân chứng khác đại diện cho chúng. Quyền này buộc cảnh sát phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cho trẻ về những chứng cứ chống lại chúng và các thông tin liên quan khác mà cảnh sát thu thập được trong quá trình điều tra.
II. Pháp luật Việt Nam
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quyền trẻ em. Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, làm hài hòa giữa hệ thống chính sách, pháp luật của quốc gia với các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em nói chung và bảo vệ NCTN vi phạm pháp luật, trẻ em là nạn nhân, nhân chứng của tội phạm trong quá trình điều tra nói riêng.
Hiện nay, việc điều tra vụ án liên quan đến TE/NCTN chủ yếu dựa vào những quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong đó có những quy định liên quan đến công tác điều tra theo hướng thân thiện. Cụ thể như:
- Xác định độ tuổi: Việc xác định độ tuổi của NCTN có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của họ, vì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên mới được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Việc xác định tuổi của NCTN phạm tội còn có ý nghĩa trong việc áp dụng đường lối xử lý và thủ tục tố tụng đối với họ. Như vậy, trẻ em dưới 14 tuổi vi phạm pháp luật sẽ không bị xử lý theo pháp luật hình sự.
- Trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội: Việc xác định trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN là nhằm xác định chính xác lỗi của NCTN. Muốn xác định những yếu tố này, cần lấy lời khai của cha mẹ, cô giáo, bạn bè của NCTN, nhận xét của tổ dân phố, đoàn thanh niên; các tài liệu y tế, kêt luận giám định cũng hết sức cần thiết trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của NCTN;
- Điều kiện sinh sống và giáo dục: Việc hiểu điều kiện sinh sống và giáo dục của NCTN có thể làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Đồng thời, muốn tìm được giải pháp xử lý thích hợp nhất đối với NCTN, không thể không tìm hiểu điều kiện sinh sống và giáo dục của các em;
- Có hay không có sự xúi giục của người thành niên: Việc xác định xem hành vi phạm tội của NCTN có chịu sự chi phối của người thành niên hay không có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nguyên nhân phạm tội của NCTN, góp phần đánh giá chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do họ thực hiện và tạo thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tìm giải pháp xử lý thích hợp đối với NCTN.
- Áp các biện pháp ngăn chặn không tước tự do:
+ Giám sát, biện pháp đặc thù đối với bị can chưa thành niên: Cơ quan điều tra có thể ra quyết định giao bị can chưa thành niên cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập (Điều 304 BLTTHS)
+ Cấm đi khỏi nơi cư trú: Được áp dụng đối với bị can chưa thành niên có nơi cư trú rõ ràng. Bị can chưa thành niên phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nới cư trú, có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập (Điều 91 BLTTHS);
+ Bảo lãnh: Người thân thích của bị can chưa thành niên (ít nhất là hai người), tổ chức mà bị can chưa thành niên là thành viên có thể nhận bảo lãnh cho bị can chưa thành niên. Khi nhận bảo lãnh, cá nhân, tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập. Đây là một biện pháp ngăn chặn để thay thế cho biện pháp tạm giam (Điều 92 BLTTHS);
+ Đặt tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm: Cơ quan điều tra có thể cho bị can chưa thành niên đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Đây cũng là một biện pháp ngăn chặn để thay thế cho biện pháp tạm giam (Điều 93 BLTTHS).
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn tước tự do: Điều kiện bắt, tạm giữ, tạm giam (Điều 88, Điều 303 BLTTHS): Do phạm vi trách nhiệm hình sự của NCTN hạn hẹp hơn so với người thành niên, phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tước tự do của đối tượng này cũng hạn hẹp hơn. NCTN phạm tội chỉ có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam trong những trường hợp sau đây:
+ Người từ 14 - dưới 16 tuổi: phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
+ Người từ 16-18 tuổi: (1) phạm tội nghiêm trọng do cố ý mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội mới (2) phạm tội rất nghiêm trọng; hoặc (3) phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Cần lưu ý, BLTTHS không quy định những trường hợp cần áp dụng các biện pháp tạm giam mà chỉ quy định những trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam. Đặc biệt BLTTHS 2003 có quy định hai biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam là bảo lãnh và đặt tiền, tài sản có giá trị để bảo đảm. Do vậy theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, đồng theo nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, ngay cả khi bị can chưa thành niên thuộc trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam, thì vẫn có thể cho phép người đó tại ngoại trên cơ sở áp dụng một trong hai biện pháp này. NCTN chỉ có thể bị tạm giam nếu xét thấy việc áp dụng những biện pháp trên vẫn không đủ hiệu quả để ngăn chặn người đó bỏ trốn, phạm tội mới, tiêu hủy chứng cứ hoặc có hành vi khác ngăn cản việc điều tra, truy tố, xét xử.
- Đình chỉ điều tra.
Theo quy định tại Điều 164 khoản 2 điểm a BLTTHS, trong trường hợp NCTN phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục, thì cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra.
Đây là con đường quan trọng nhằm chuyển NCTN phạm tội ra khỏi hệ thống xử lý hình sự để xử lý bằng biện pháp giám sát, giáo dục tại cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay quy định này chưa được áp dụng một cách thường xuyên trong thực tiễn do nhiều nguyên nhân. Trong số những nguyên nhân này, có thể kể đến việc thiếu hướng dẫn cụ thể và thiếu cơ chế hỗ trợ để gia đình tổ chức xã hội có thể giám sát, giáo dục NCTN được đình chỉ điều tra trong trường hợp này một cách hiệu quả, bảo đảm rằng các em thực sự nhận thức được lỗi lầm của mình và sẽ không tái phạm.
- Lấy lời khai: theo quy định của BLTTHS, việc lấy lời khai của NCTN phải bảo đảm một số yêu cầu sau:
+ Trước khi hỏi cung phải đọc quyết định khởi tố, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can;
+ Trình bày lời khai là quyền của bị can, nghiêm cấm dùng nhục hình;
+ Khi lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là NCTN có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, bắt buộc phải có sự hiện diện của đại diện gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng (Điều 306 BLTTHS).
Ngoài ra, nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em (Điều 5 Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em) đòi hỏi điều tra viên khi lấy lời khai của NCTN phải cân nhắc để tìm ra phương thức và có thái độ thích hợp, trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm, phẩm giá của các em và chú ý tới nhu cầu bảo vệ đặc biệt của NCTN.
- Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội:
+ Đại diện của gia đình, thầy cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức khác, có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 306 khoản 1);
+ Đại diện gia đình có quyền tham gia khi lấy lời khai của NCTN từ 14-dưới 16 tuổi hoặc NCTN có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Đại diện của gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được điều tra viên đồng ý, được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra (Điều 306 khoản 2).
- Yêu cầu đối với điều tra viên trong vụ án NCTN: Điều 302 khoản 1 BLTTHS quy định điều tra viên trong những vụ án NCTN phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN. Những yêu cầu này đều nhằm bảo đảm rằng những người tiến hành tố tụng khi tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, chưa thành niên sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý, cảm thông với các em, tìm được phương thức hợp lý để khơi gợi, thúc đẩy sự hợp tác của các em trong quá trình làm sáng tỏ sự thực khách quan của vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý của các em trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như trong quá trình tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các em nhận thức lỗi lầm, cải tạo và phục hồi.
- Bảo đảm các quyền của người bị tạm giữ, bị can là NCTN:
+ Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do thân thể của công dân phải có quyết định của người có thẩm quyền và theo thủ tục luật định, mọi hình thức truy bức, nhục hình đều bị nghiêm cấm;
+ Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín: Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín của công dân phải theo đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định;
+ Quyền được suy đoán vô tội: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Điều 9). Trong quá trình điều tra, phải luôn luôn đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như những người vô tội. Do được giả định vô tội cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh rằng mình vô tội (mặc dù họ có quyền làm như vậy). Trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 10 BLTTHS);
+ Quyền bào chữa: Người bị tạm giữ, bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; cơ quan điều tra có nhiệm vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình (Điều 11 BLTTHS);
+ Quyền bình đẳng trước pháp luật: Mọi công dân không biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, địa vị, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội đều bình đẳng trước pháp luật và bất cứ người phạm tội nào cũng đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 5 BLTTHS). Nguyên tắc này nhằm bảo đảm loại trừ khả năng khởi tố, truy tố, kết án vì lý do phân biệt đối xử;
+ Quyền biết lý do buộc tội: Người bị tạm giữ có quyền biết lý do mình bị tạm giữ (được nhận quyết định tạm giữ trong đó nêu rõ lý do tạm giữ); bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì (được nhận quyết định khởi tố);
+ Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ: Để hoạt động tố tụng hình sự đạt được hiệu quả cao, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can thì trước mỗi hoạt động hoặc hành vi tố tụng, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải giải thích cho họ biết họ có những quyền và nghĩa vụ gì. Cụ thể, người thi hành lệnh bắt, người thi hành quyết định tạm giữ phải giải thích quyền, nghĩa vụ cho người bị bắt, người bị tạm giữ; khi giao quyết định khởi tố bị can, phải giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can; điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can trước khi hỏi cung.
+ Quyền trình bày lời khai: Xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, trình bày lời khai là quyền của người bị tạm giữ và bị can chứ không phải là nghĩa vụ. Vì vậy họ có quyền sử dụng hoặc không sử dụng quyền năng tố tụng đó và pháp luật không thể coi đó là tình tiết làm xấu đi tình trạng của họ. Để khuyến khích họ khai báo đúng sự thật, Điều 46 BLHS quy định “thành khẩn khai báo” là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu những người này khai báo không thành khẩn hoặc không chịu khai báo thì pháp luật không coi đó là tình tiết tăng nặng. Đặc biệt, việc mớm cung hoặc truy bức, dùng nhục hình để buộc người bị tạm giữ, bị can khai báo, bị nghiêm cấm theo quy định của Điều 6 BLTTHS và người có những hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dùng nhục hình và/hoặc tội bức cung (các Điều 298, 299 BLHS).
Tóm lại, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương đối đầy đủ về công tác điều tra các vụ án liên quan đến TE/NCTN theo hướng bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho TE/NCTN. Tuy vậy, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận các quy định đó còn nhiều khuyếm khuyết, đặc biệt là thiếu hướng dẫn cụ thể và các điều kiện bảo đảm.
III. Một số đề xuât nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống điều tra thân thiện TE/NCTN.
1. Sự cần thiết phải áp dụng phương pháp điều tra thân thiện trong các vụ án liên quan đến TE/NCTN:
Thực tế điều tra cho thấy, trẻ em vi phạm pháp luật thường do nhận thức xã hội và pháp luật còn hạn chế, bồng bột, thiếu kiềm chế trước tác động của ngoại cảnh, thiếu kỹ năng ứng xử, nhiều trường hợp không phân biệt được đúng sai và hậu quả hành động của mình đối với người khác. Trẻ em bị xâm hại do tuổi còn nhỏ nên rất dễ bị tổn thương, nhiều khi không hiểu được những gì đã diễn ra với mình; không dám hoặc không thể kể lại sự việc đã xảy ra; không hiểu được ngôn ngữ phức tạp, đặc biệt là những từ ngữ luật.
Khi phải tiếp xúc với công an thì phong cách, tấm gương cụ thể của người cán bộ cảnh sát làm việc với trẻ em mà trẻ em quan sát được có ảnh hướng rất lớn đến tư tưởng, nhận thức và tình cảm của trẻ em theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Vì vậy, điều tra thân thiện với TE/NCTN sẽ bảo đảm lợi ích tốt nhất cho TE/NCTN, tạo cơ hội cho trẻ hòa nhập cộng đồng, mặt khác còn giúp cho việc thu thập thông tin về vụ án được đầy đủ, chính xác, công tác điều tra sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn.
2. Bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến công tác điều tra vụ án liên quan đên TE/NCTN theo hướng thân thiện.
- Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định đối với NCTN phạm tội trong BLHS theo hướng tăng cường việc áp dụng xử lý chuyển hướng (thay thế truy cứu trách nhiệm hình sự); việc giam giữ NCTN vi phạm pháp luật (tước tự do) chỉ là biện pháp cuối cùng khi không còn sự lựa chọn nào khác;
- Cần xây dựng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt đối với các vụ án NCTN trên cơ sở bảo đảm lợi ích tốt nhất của NCTN và khả năng sửa chữa lỗi lầm, tái hòa nhập cộng đồng của họ.
3. Xây dựng quy trình điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến TE/NCTN theo hướng thân thiện
- Trong khi chờ sửa đổi BLHS, BLTTHS, các cơ quan liên quan cần nghiên cứu ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến TE/NCTN nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan đến NCTN trong BLHS và BLTTHS;
- Trên cơ sở thông tư nói trên, Bộ Công an xây dựng quy trình điều tra, xử lý các vụ án liên quan đến NCTN theo hướng thân thiện để hướng dẫn thống nhất cho cơ quan điều tra các cấp thực hiện.
4. Xây dựng môi trường thân thiện với TE/NCTN trong quá trình điều tra
- Mở rộng việc xây dựng các phòng điều tra thân thiện với TE/NCTN (như các mô hình thí điểm tại Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Đồng Tháp, TP Hồ Chí Minh do Cục Cảnh sát điều tra tội phạm hình sự và Unicef hướng dẫn và hỗ trợ trang thiết bị);
- Khi chưa có các phòng điều tra thân thiện thì phòng lấy lời khai, hỏi cung TE/NCTN cũng cần bố trí bàn ghế và các trang thiết bị sao cho TE/NCTN cảm thấy thoải mái hơn;
- Lấy lời khai tại nhà của TE/NCTN thay vì tại cơ quan điều tra bất cứ khi nào có thể và phù hợp;
- Cảnh sát khi lấy lời khai của TE/NCTN nên mặc thường phục để các em khỏi cảm thấy sợ sệt;
- Cải thiện điều kiện nơi giam, giữ TE/NCTN vi phạm pháp luật (chỗ ở, điều kiện sinh hoạt…).
5. Nâng cao năng lực cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến TE/NCTN.
- Thành lập các đơn vị cảnh sát chuyên trách để giải quyết các vấn đề liên quan đến TE/NCTN vi phạm pháp luật;
- Biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cho lực lượng cảnh sát thường xuyên tiếp xúc, làm việc với TE/NCTN vi phạm pháp luật, nhằm nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng của lực lượng cảnh sát nói chung, cảnh sát điều tra nói riêng khi điều tra, giải quyết các trường hợp NCTN vi phạm pháp luật, trẻ em là nạn nhân, nhân chứng trong các vụ án.
6. Tăng cường thanh tra, giám sát các hoạt động điều tra liên quan đến TE/NCTN nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật, các hướng dẫn liên quan về điều tra, xử lý các vụ án liên quan đến TE/NCTN được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.
TG.Phạm Văn Hùng
LUẬT BẮC VIỆT ( BVL LAWFIFM)
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
-------------------------------------------
Liên hệ với Luật sư :
P: 0938188889 - 0913753918
M: ceo@bacvietluat.vn – lawyer.@bacvietluat.vn
|
Bình luận
Bình luận bằng Facebook