Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Các rủi ro tiềm ẩn trong quá trình vận động của các sự vật luôn là một lực lượng không thể kiểm soát được và dường như đã trở thành một sức mạnh đe doạ tới sức khoẻ, tính mạng con người, của cải vật chất trên phạm vi toàn xã hội. Khi các rủi ro xảy ra thường kéo theo những tổn thất không lường và để lại hậu quả lâu dài, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của con người, đến một cộng đồng dân cư, thậm chí đến cả một xã hội.
Các rủi ro có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng bất luận là nguyên nhân nào đều gây ra một hậu quả là làm cho người gặp rủi ro lâm vào tình trạng khó khăn trong đời sống, trong một số trường hợp tự họ không thể khắc phục được. Trong các trường hợp này, nếu người gặp rủi ro đã tham gia bảo hiểm và rủi ro mà họ gặp đã được bảo hiểm, thì bằng nguồn vốn của mình, công ty bảo hiểm thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm một cách kịp thời. Từ đó người gặp rủi ro trong trường hợp này sẽ dễ dàng vượt qua được khó khăn do rủi ro đã mang đến.
I. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm.
Để khắc phục một phần thiệt hại do những rủi ro xảy ra đối với tính mạng, tài sản, trách nhiệm dân sự, Nhà nước khuyến khích cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm là một hình thức khắc phục thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khi gặp những sự kiện rủi ro gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mình. Khi có rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm được tổ chức bảo hiểm bồi thường thiệt hại nhằm khắc phục hậu quả xảy ra. Mức độ bồi thường bao nhiêu phụ thuộc vào hợp đồng bảo hiểm mà các bên thoả thuận.
Theo quy định tại Điều 567 BLDS, hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, còn bên mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đền bù. Hoạt động bảo hiểm là hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy, muốn được bảo hiểm về tài sản thì các chủ thể phải mua phí bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm phải thông báo tình trạng của đối tượng bảo hiểm…có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và có quyền yêu cầu bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trường hợp bên mua bảo hiểm có chỉ định người thụ hưởng là người thứ ba, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm chi trả cho người thứ ba được xác định. Hoặc bên mua bảo hiểm không phải bảo hiểm cho mình mà bảo hiểm cho người thứ ba. Ví dụ: cha mẹ mua bảo hiểm tính mạng, sức khoẻ cho con là học sinh tiểu học.
Đối tượng bảo hiểm có thể là con người, tài sản, trách nhiệm dân sự hay các đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Con người là đối tượng bảo hiểm được hiểu là tính mạng, sức khoẻ của cá nhân bị tổn thất do sự kiện rủi ro…Tài sản bảo hiểm là tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được bên bảo hiểm bồi thường thiệt hại do các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Trách nhiệm dân sự là đối tượng bảo hiểm được hiểu là bên bảo hiểm phải thực hiện việc bồi thường thay cho chủ các phương tiện giao thông vận tải…trong phạm vi số tiền được bảo hiểm do thoả thuận hoặc do pháp luật quy định khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Việc tham gia bảo hiểm của các bên phải được thực hiện bằng hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ kí của bên mua bảo hiểm là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm có thể được phân chia thành các loại sau: Hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
II. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
1. Lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
1.1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng về bảo hiểm trách nhiệm dân sự hay chính là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) với bên tham gia bảo hiểm (tổ chức, cá nhân), theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang những đặc điểm chung của hợp đồng bảo hiểm, đồng thời có những đặc trưng riêng.
1.2. Đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định được giá trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. “ Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật ”. (Điều 52 Luật kinh doanh bảo hiểm). Khác với hợp đồng bảo hiểm tài sản có đối tượng là tài sản cụ thể, hợp đồng bảo hiểm con người là bảo hiểm đối với một người cụ thể; đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi, giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính trừu tượng chúng ta không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng các giác quan và thực tế chúng không tồn tại hiện hữu trong không gian tại thời điểm giao kết hợp đồng. Chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt hại cho người khác và phải bồi thường thì mới xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là bao nhiêu. Thường đối với các hợp đồng bảo hiểm tài sản ta có thể xác định được mức tổn thất tối đa của tài sản khi giao kết hợp đồng, còn với các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì không thể xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại tối đa là bao nhiêu. Mức trách nhiệm bồi thường được xác định theo thoả thuận của các bên và các quy định của pháp luật, trên cơ sở mức độ lỗi của người gây thiệt hại và thiệt hại thực tế của người thứ ba. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các đi kiện sau: có hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba; có lỗi của người gây thiệt hại; có thiệt hại thực tế đối với bên thứ ba; thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại và ngược lại hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm, đồng thời cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Trên thực tế lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán, nên người gây thiệt hại bị suy đoán là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại, trừ trường hợp họ chứng minh được thiệt hại xảy ra trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm xác định trách nhiệm bồi thường của mình.
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.
Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người tham gia bảo hiểm phải bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không phải chịu trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm. Việc bồi thường thiệt hại có thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cũng có thể là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người thứ ba có thể là bất kì tổ chức hoặc cá nhân nào bị thiệt hại. Còn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì người thứ ba được xác định cụ thể là người có một quan hệ hợp đồng đối với người tham gia bảo hiểm và bị thiệt hại từ hợp đồng đó do hành vi của người tham gia bảo hiểm gây ra. Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.
Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể giới hạn trách nhiệm bảo hiểm hoặc không giới hạn trách nhiệm bảo hiểm. Để đảm bảo lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời nâng cao ý thức của người tham gia bảo hiểm, các danh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm xác định mức bồi thường tối đa của doanh nghiệp bảo hiểm đối với những hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Khi gây thiệt hại, mức trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm có thể là rất lớn, song mức trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ trong phạm vi số tiền bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự có một số nghiệp vụ bảo hiểm không xác định số tiền bảo hiểm mà trách nhiệm dân sự phát sinh bao nhiêu doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường bấy nhiêu. Trường hợp này số tiền bảo hiểm được hiểu là toàn bộ thiệt hại xảy ra. Điều khoản số tiền bảo hiểm được đặt ra nhằm mục đích giới hạn phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, để đảm bảo kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán để giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Đối với một số trường hợp ngoại lệ, khi doanh nghiệp bảo hiểm ký hợp đồng với người tham gia bảo hiểm, trong hợp đồng không xác định số tiền bảo hiểm cụ thể thì khi rủi ro xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ bảo hiểm đối với toàn bộ thiệt hại.
1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Căn cứ vào tính ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm thì bảo hiểm trách nhiệm dân sự được chia thành hai loại là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chia thành hai loại là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh theo hợp đồng và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh ngoài hợp đồng.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm cụ thể, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chia thành các loại là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, bảo hiểm trách nhiệm của chủ đóng tàu, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách, bảo hiểm trách nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm của chủ nuôi chó, các loại bảo hiểm trách nhiệm khác.
1.4. Vai trò của bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Rủi ro khách quan luôn tiềm ẩn trong đời sống xã hội hàng ngày. Thực tế các rủi ro này có thể do rất nhiều nguyên nhân và hậu quả của nó ngày càng không thể kiểm soát được. Ngoài những rủi ro do thiên tai mang tới còn có những rủi ro do chính hành vi của con người gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần cho người khác. Pháp luật quy định: vốn, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước bảo hộ; bất kì tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng không ngừng các vụ tai nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn nhân hoặc gia đình họ đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi thường, rồi xác định được mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi thường được tiến hành như thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt với tình trạng bồi thường cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều trường hợp nạn nhân không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai nạn, thậm chí trong những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng. Lý do rất đơn giản là người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để thực hiện nghĩa vụ luật định đối với nạn nhân. Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không may bị tai nạn cũng được đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định, và người gây tai nạn không phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm tài chính của mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình gây ra khi điều kiện tài chính không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên nếu chủ chiếc xe đó đã tham gia mua bảo hiểm bắt buộc thì mọi việc sẽ được giải quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe đền bù cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp chủ xe đã đền bù cho nạn nhân thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi thường cho chủ xe, đảm bảo khả năng tài chính của họ.
Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác. Đối với người bị thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo cho họ một tâm lý yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm họ có quyền thu phí bảo hiểm từ khách hàng song không phải lúc nào họ cũng phải đứng ra bồi thường thay cho khách hàng. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
2. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm gồm: Bên nhận bảo hiểm (bên bán bảo hiểm) và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm).
Bên nhận bảo hiểm.
Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh nghiệp bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm là bên đã nộp cho bên nhận bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với bên nhận bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cử nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Nếu bên tham gia bảo hiểm là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện kiểm soát và làm chủ hành vi của mình. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình…
2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, văn bản hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một trong ba loại hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân theo các quy định pháp luật về hình thức hợp đồng. Hiện nay, đa phần các hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới hai dạng là giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc theo quy định của pháp luật thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng đó đang có hiệu lực pháp luật . Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Vì vậy hình thức của hợp đồng bảo hiểm này thường được thiết kế dưới dạng giấy chứng nhận bảo hiểm.
Ví dụ: Khi điều khiển xe cơ giới nếu không có bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để xuất trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc cho xe đó lưu hành là vi phạm.
Đơn bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm thường là hình thức của hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, có thể có các dạng khác nhau và thường bao gồm nhiều trang. Các thông tin ghi trên đơn chi tiết, cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm: tên, địa chỉ của chủ doanh nghiệp bảo hiểm; bên mua bảo hiểm; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm; phạm vi bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm; mức phí và phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; giải quyết tranh chấp. Đơn bảo hiểm thường kèm theo các phụ lục để chi tiết hoá các thông tin đặc điểm của từng khách hàng cụ thể, đồng thời giải thích thuật ngữ trong đơn bảo hiểm. Nội dung đơn bảo hiểm gồm phần mở đầu; phần quy định về các điều khoản chính; phần quy định về các điều khoản loại trừ; phần quy định về các điều kiện; chữ ký, ghi rõ họ tên của người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2.3. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hiểu theo nghĩa chung nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm. Điều bắt buộc đối với một người trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc người đó phải bằng tài sản của mình gánh chịu việc bù đắp những thiệt hại về vật chất và tổn thất tinh thần do hành vi của mình gây ra cho người khác. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ bốn yếu tố:
Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật là những hành vi xâm phạm tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác được thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật. Những hành vi có gây ra thiệt hại cho người khác nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì người thực hiện những hành vi đó không phải bồi thường. Ví dụ: hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp trong giới hạn phòng vệ chính đáng, trong giới hạn của tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ.
Có thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng nhằm mục đích khắc phục một phần hoặc toàn bộ tổn thất tài chính cho người bị thiệt hại. Do đó, chỉ khi có thiệt hại xảy ra thì mới phải bồi thường; vì vậy cần phải xác định xem có thiệt hại xảy ra hay không và thiệt hại là bao nhiêu. Thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền , bao gồm: những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi phí nhằm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là hậu quả trực tiếp do hành vi trái pháp luật của họ gây ra, hay hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra hậu quả đó.
* Có lỗi của người gây thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi cố ý hoặc vô ý gây ra, cũng có thể do nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do cây cối, súc vật gây ra. Song với bản chất của bảo hiểm là chỉ bảo hiểm rủi ro nên phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chỉ bao gồm các thiệt hại do hành vi vô ý; do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra; không bảo hiểm với những thiệt hại do hành vi cố ý gây ra. Vậy đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do hành vi vô ý gây ra.
2.4. Sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, song bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu…Mua bảo hiểm chính là phòng tránh rủi ro trước khi nó xảy ra. Điều 571BLDS quy định: “ sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm ”. Theo đó, một sự kiện xảy ra trên thực tế chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu nó là sự kiện khách quan và khi sự kiện đó xảy ra đã gây thiệt hại, tổn thất thực tế. Mặt khác, bên bảo hiểm chỉ phải trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra trong phạm vi bảo hiểm đã được các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định và trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đó. Hiểu một cách chung nhất thì sự kiện bảo hiểm là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Hay sự kiện bảo hiểm chính là rủi ro được bảo hiểm.
2.5. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và loại trừ trách nhiệm bảo hiểm.
* Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế chuyển giao trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ người tham gia bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo hiểm, bản thân bảo hiểm không loại trừ được những thiệt hại xảy ra nhưng thông qua đó bảo đảm việc khắc phục về mặt tài chính đối với những thiệt hại đó. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên mua bảo hiểm phải hình dung được trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình sẽ được bảo hiểm là gì và nếu có thiệt hại xảy ra thì sẽ được bên bảo hiểm chi trả một lượng tài chính là bao nhiêu. Ngược lại, bên bảo hiểm cũng phải xác định được phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình nhận là gì và lượng tài chính mà mình sẽ chi trả cho bên được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra là bao nhiêu. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là công việc không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm nói chung; đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bởi trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong đời sống dân sự rất phong phú, đa dạng; và doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đối với những khoản tài chính mà theo quy định của pháp luật người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba bị thiệt hại, bao gồm cả những chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp để xác định trách nhiệm bồi thường đối với người thứ ba và lãi phải trả cho người thứ ba do người tham gia bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm có ưu điểm là làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm và họ có thể đánh giá được mức độ bồi thường tối đảtong từng tình huống có phát sinh trách nhiệm đối với từng hợp đồng cụ thể. Mặt khác nhà bảo hiểm cũng có thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau cho phù hợp với thị trường. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có quy định mức giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm sẽ chỉ được bảo hiểm trong phạm vi giới hạn bảo hiểm đó mà không được bảo hiểm cho toàn bộ trách nhiệm dân sự của mình đối với người thứ ba, do đó họ phải tự thực hiện phần trách nhiệm vượt quá giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba.
* Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được coi là phần loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm trong đó liệt kê các trường hợp bên bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. (Khoản 1 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Việc xác định thiệt hại không được bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Phần loại trừ này nhằm hạn chế phạm vi những thiệt hại có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm, đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi lẽ, nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn chế thì tần suất rủi ro sẽ rất lớn dẫn đến sự kiện bảo hiểm trong một hợp đồng luôn có thể xảy ra. Thông qua phần loại trừ này, doanh nghiệp bảo hiểm giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn chế mức phí sẽ phải rất cao, như vậy sẽ hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo hiểm của những người có nhu cầu bảo hiểm. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một trong những điều khoản bắt buộc phải có của hợp đồng bảo hiểm nói chung và đã được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm. Điều khoản được đặt ra nhằm mục đích cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm có ý định trục lợi bảo hiểm bằng những hành vi cố ý. Điều này nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp bảo hiểm, lợi ích của các khách hàng trung thực, đồng thời bảo vệ trật tự của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cũng như đảm bảo các giá trị nhân văn, bảo vệ các giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Điều khoản loại trừ cũng có thể bao gồm việc từ chối trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp có thảm hoạ, có thể gây tổn thất trên diện rộng và làm mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ: sóng thần, động đất, núi lửa… thiệt hại vô cùng lớn. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả số tiền bảo hiểm cho các trường hợp này thì rất có thể sẽ đưa đến việc mất khả năng thanh toán do cùng một lúc phải chi trả một khoản tiền quá lớn. Do đó, khi tính phí bảo hiểm theo tỷ lệ rủi ro thông thường doanh nghiệp bảo hiểm cần phải quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với trường hợp này nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh, cũng chính là bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thường được pháp luật quy định tương ứng với từng loại nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể, trên cơ sở đó các doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể hoá phần loại trừ trong các hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy nếu trong hợp đồng bảo hiểm mà không xác định điều khoản loại trừ đã được pháp luật quy định thì bên bảo hiểm vẫn không phải bồi thường đối với các tổn thất xảy ra trong trường hợp đã được pháp luật loại trừ. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp: bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý; bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm. (Khoản 3 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
2.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Quyền của bên bảo hiểm là sự đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm và bên được bảo hiểm và ngược lại.
* Việc lựa chọn giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất lượng cao nhất. Quyền này đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm: mức phí thấp hơn, thủ tục bồi thường nhanh chóng, hợp tình, hợp lý hơn, kịp thời khắc phục được những tổn thất về tài chính đối với bên tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đồng thời bên mua bảo hiểm cũng có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm để tìm hiểu những thông tin cần thiết, xem xét hợp đồng bảo hiểm đó có phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình hay không.
Để bên mua bảo hiểm thực hiện được quyền này thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác về hợp đồng và giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm.
Sau khi đã tìm hiểu và quyết định mua bảo hiểm tại một doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể, thì bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên nhận bảo hiểm các thông tin chi tiết liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời, bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho mình.
Về phía mình, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; và có nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm sau khi giao kết hợp đồng và thu phí bảo hiểm.
* Phí bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm; còn bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức nộp phí bảo hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ.
Trong hợp đồng bảo hiểm thì phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là các yếu tố để xác định phí bảo hiểm và theo đó xác định số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm là lợi ích mà các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm hướng tới khi giao kết một hợp đồng bảo hiểm. Để đảm bảo tính lợi nhuận và sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán phí bảo hiểm với một mức thích hợp. Phí bảo hiểm được tính toán dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, song nguồn tài chính thu được từ phí bảo hiểm theo mức đã được tính toán tối thiểu phải có dư sau khi đã chi phí cho các hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Để xác định một mức phí bảo hiểm bảo đảm có lợi nhuận, còn cần phải cân nhắc đến các yếu tố quan trọng như: sự trượt giá của đồng tiền, sự thay đổi lãi suất vốn vay bởi khoản tiền thu được từ phí bảo hiểm hiện tại được dùng để bồi thường thiệt hại xảy ra trong tương lai. Phí bảo hiểm là khung giá định cho một sản phẩm bảo hiểm nhất định. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì phí bảo hiểm được xác định theo mức trách nhiệm mà pháp luật quy định. Đối với mỗi loại sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự khác nhau, phí bảo hiểm được xác định trên những căn cứ khác nhau xuất phát từ những cơ sở để xác định trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm.
Phí bảo hiểm trách nhiệm công cộng khó xác định cụ thể và mức phí thay đổi một cách đáng kể tuỳ thuộc vào từng rủi ro. Phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào số tiền bảo hiểm, nghề nghiệp của người tham gia bảo hiểm, quy trình kinh doanh, vị trí, phạm vi hoạt động, loại hình sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm, doanh thu của người tham gia bảo hiểm, khả năng xuất hiện bên thứ ba tại địa điểm sản xuất kinh doanh…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm thường được tính trên cơ sở doanh thu, khối lượng sản phẩm sản xuất ra.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được xác định dựa trên quy mô hoạt động nghề nghiệp của chủ thể tham gia; số lượng và trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác của các thành viên; cơ sở vật chất để tổ chức tiến hành nghề nghiệp; giới hạn bồi thường…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Ngoài ra, mức phí còn tính theo tỷ lệ phần trăm mức phí theo năm đối với thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn.
Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động về cơ bản được tính căn cứ vào số tiền bảo hiểm đã thoả thuận, đồng thời căn cứ vào thời hạn bảo hiểm và loại nghề nghiệp của người lao động. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không là số tiền mà hãng hàng không phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không được xác định trên các yếu tố: mức giới hạn trách nhiệm; số vụ tai nạn và mức độ tổn thất của các vụ tai nạn trong khu vực và trên thế giới; việc đào tạo và kinh nghiệm của phi công; loại máy bay được sử dụng trong việc chuyên chở; số lượng hàng hoá, hành lý chuyên chở trong năm; số lượng và loại hành khách; tuyến bay, tần suất bay; vị trí pháp lý của hãng hàng không.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là khoản tiền do bên bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí do Bộ tài chính quy định áp dụng cho từng loại tàu, nhóm tàu theo các điều kiện bảo hiểm cụ thể. Phí bảo hiểm có thể tăng hoặc giảm tuỳ vào tình hình tổn thất hàng năm của các đội tàu tham gia bảo hiểm.
* Trả tiền bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật. (Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
Còn bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm so với thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật đã quy định thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm trả.
Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nhằm nâng cao ý thức của người mua bảo hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm chuyển hết mọi trách nhiệm sang cho doanh nghiệp bảo hiểm, pháp luật quy định bên mua bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa thiệt hại và các biện pháp cần thiết khác để hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại. Bên mua bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp đó trong thời gian đã được doanh nghiệp bảo hiểm khuyến nghị. Nếu bên mua bảo hiểm không thực hiện và sự kiện bảo hiểm chưa xảy ra thì phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để xem xét tính tăng phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
* Chuyển yêu cầu bồi hoàn.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm hoặc trực tiếp trả lời cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm thiệt hại mà bên mua bảo hiểm gây ra cho người thứ ba theo quy định của pháp luật. Người thứ ba trong trường hợp này không phải là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự nhưng là chủ thể của quan hệ nghĩa vụ bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người thứ ba là bên có quyền được hưởng việc bồi thường theo mức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không hoàn toàn do lỗi của bên mua bảo hiểm hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của chủ thể khác thì người mua bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp người khác cùng có lỗi gây thiệt hại cho người thứ ba và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người đó bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm.
* Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, đẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2.7. Hiệu lực của hợp đồng.
* Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
- Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện như đã trình bày ở phần trên. Bên tham gia bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Đối với cá nhân, BLDS quy định về năng lực tham gia giao dịch của các chủ thể với nguyên tắc: người tham gia giao dịch phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Vậy một cá nhân đạt được sự phù hợp giữa ý chí và lý trí được coi là người có đủ năng lực hành vi dân sự.
- Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp luật nếu mục đích và nội dung của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những trật tự xã hội, thuần phong mỹ tục được hình thành trên cơ sở kinh tế nhất định và được cộng đồng xã hội thừa nhận. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì mục đích của các chủ thể khi tham gia hợp đồng là nhằm bảo hiểm đối với những tổn thất về tài chính có thể xảy ra do có những hành vi gây thiệt hại cho người khác, thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của mình. Mọi trường hợp tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm thì đều vi phạm pháp luật.
- Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Điều kiện về hình thức của hợp đồng bảo hiểm.
Hình thức của hợp đồng bảo hiểm đã được quy định bắt buộc là bằng văn bản nên nếu hợp đồng bảo hiểm được giao kết bằng hình thức khác sẽ không có hiệu lực pháp luật. Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax, các hình thức khác do pháp luật quy định.
* Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.
- Thời điểm bắt đầu.
Thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với những người có quyền, nghĩa vụ từ hợp đồng đó. Đối với hợp đồng bảo hiểm lại càng quan trọng hơn, bởi các rủi ro mà người tham gia bảo hiểm gặp phải chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu rủi ro đó xảy ra sau thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Theo Điều 405 BLDS thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự là từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Hiện chưa có quy định riêng của pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nên đối với các hợp đồng bảo hiểm mà các bên không có thoả thuận khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực được xác định theo thời điểm giao kết. Hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải giao kết bằng hình thức văn bản nên về nguyên tắc thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm được xác định là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản được coi là bằng chứng của hợp đồng.
- Thời điểm kết thúc.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt theo các trường hợp được quy định tại Điều 424 BLDS 2005 và Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Theo đó thời điểm chấm dứt của hợp đồng bảo hiểm gồm các trường hợp sau:
+ Hợp đồng được hoàn thành: Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì hợp đồng hoàn thành khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm hoặc hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đó.
+ Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì hợp đồng đó được coi là chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của bên này.
+ Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi đối tượng được bảo hiểm không còn.
Trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm không còn khi chủ thể tham gia bảo hiểm không có khả năng gây thiệt hại cho người khác từ hoạt động tương ứng với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm mà họ tham gia. Tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể để xác định đối tượng của hợp đồng bảo hiểm bị coi là không còn khi nào.
+ Bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Đối với những hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm gắn liền với tài sản cụ thể, khi tài sản đó được chuyển giao quyền sở hữu cho người khác nếu không có thoả thuận về việc đồng thời chuyển giao trách nhiệm được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế.
+ Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi bị huỷ bỏ.
Kết luận.
Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng dân sự thông dụng. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chất lượng cuộc sống tốt hơn thì mỗi chủ thể ngày càng quan tâm tới những vấn đề về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, trách nhiệm dân sự… của mình. Và để có thể yên tâm hơn, tránh được những rủi ro không ngờ đến thì họ đã chọn cho mình giải pháp là hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm có đối tượng là trách nhiệm dân sự là một loại bảo hiểm trách nhiệm phổ biến trong đời sống xã hội. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế bảo đảm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời những tổn thất do bên mua bảo hiểm gây ra cho bên thứ ba. Với ý nghĩa đó, dù không khắc phục được hoàn toàn tổn thất xảy ra, song bảo hiểm trách nhiệm dân sự góp phần bình ổn tài chính cho cả bên được bảo hiểm và bên thứ ba khi người tham gia bảo hiểm gây ra thiệt hại. Trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự ngày càng đa dạng và phức tạp. Nhiều loại hình bảo hiểm trách nhiệm mới ra đời cùng với nhu cầu bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong đời sống và kinh doanh. Tuy nhiên quy định của pháp luật hiện nay vẫn chưa thực sự chi tiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội này. Trước thềm hội nhập của nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng có nhiều triển vọng phát triển mạnh mẽ. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm càng đa dạng, phong phú thì trách nhiệm phát sinh từ các hoạt động đó càng nhiều. Vì vậy để bảo hiểm cho trách nhiệm ấy, các doanh nghiệp sẽ tham gia nhiều hơn vào thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự để đảm bảo an toàn khả năng tài chính của mình. Trong một tương lai không xa, thị trường kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự sẽ phát triển vượt bậc hơn nữa./.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Bộ Luật Dân Sự 2005.
3. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.
4. Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, TS. Phạm Văn Tuyết, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007.
5. Hướng dẫn pháp luật hợp đồng dân sự và cơ chế giải quyết tranh chấp trong bộ luật tố tụng dân sự, Đặng Văn Được – Tạ Thị Hồng Vân, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội, 2006.
6. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Nguyễn Thị Nhung, Luận văn thạc sĩ.
(theo: ThoLaw)
Các rủi ro có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng bất luận là nguyên nhân nào đều gây ra một hậu quả là làm cho người gặp rủi ro lâm vào tình trạng khó khăn trong đời sống, trong một số trường hợp tự họ không thể khắc phục được. Trong các trường hợp này, nếu người gặp rủi ro đã tham gia bảo hiểm và rủi ro mà họ gặp đã được bảo hiểm, thì bằng nguồn vốn của mình, công ty bảo hiểm thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm một cách kịp thời. Từ đó người gặp rủi ro trong trường hợp này sẽ dễ dàng vượt qua được khó khăn do rủi ro đã mang đến.
I. Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm.
Để khắc phục một phần thiệt hại do những rủi ro xảy ra đối với tính mạng, tài sản, trách nhiệm dân sự, Nhà nước khuyến khích cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm là một hình thức khắc phục thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khi gặp những sự kiện rủi ro gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mình. Khi có rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm được tổ chức bảo hiểm bồi thường thiệt hại nhằm khắc phục hậu quả xảy ra. Mức độ bồi thường bao nhiêu phụ thuộc vào hợp đồng bảo hiểm mà các bên thoả thuận.
Theo quy định tại Điều 567 BLDS, hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, còn bên mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đền bù. Hoạt động bảo hiểm là hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy, muốn được bảo hiểm về tài sản thì các chủ thể phải mua phí bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm phải thông báo tình trạng của đối tượng bảo hiểm…có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và có quyền yêu cầu bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trường hợp bên mua bảo hiểm có chỉ định người thụ hưởng là người thứ ba, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm chi trả cho người thứ ba được xác định. Hoặc bên mua bảo hiểm không phải bảo hiểm cho mình mà bảo hiểm cho người thứ ba. Ví dụ: cha mẹ mua bảo hiểm tính mạng, sức khoẻ cho con là học sinh tiểu học.
Đối tượng bảo hiểm có thể là con người, tài sản, trách nhiệm dân sự hay các đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Con người là đối tượng bảo hiểm được hiểu là tính mạng, sức khoẻ của cá nhân bị tổn thất do sự kiện rủi ro…Tài sản bảo hiểm là tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được bên bảo hiểm bồi thường thiệt hại do các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Trách nhiệm dân sự là đối tượng bảo hiểm được hiểu là bên bảo hiểm phải thực hiện việc bồi thường thay cho chủ các phương tiện giao thông vận tải…trong phạm vi số tiền được bảo hiểm do thoả thuận hoặc do pháp luật quy định khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Việc tham gia bảo hiểm của các bên phải được thực hiện bằng hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ kí của bên mua bảo hiểm là một bộ phận không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm có thể được phân chia thành các loại sau: Hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
II. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
1. Lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
1.1. Khái niệm
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng về bảo hiểm trách nhiệm dân sự hay chính là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) với bên tham gia bảo hiểm (tổ chức, cá nhân), theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang những đặc điểm chung của hợp đồng bảo hiểm, đồng thời có những đặc trưng riêng.
1.2. Đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định được giá trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. “ Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật ”. (Điều 52 Luật kinh doanh bảo hiểm). Khác với hợp đồng bảo hiểm tài sản có đối tượng là tài sản cụ thể, hợp đồng bảo hiểm con người là bảo hiểm đối với một người cụ thể; đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt hại có thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi, giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính trừu tượng chúng ta không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng các giác quan và thực tế chúng không tồn tại hiện hữu trong không gian tại thời điểm giao kết hợp đồng. Chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt hại cho người khác và phải bồi thường thì mới xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là bao nhiêu. Thường đối với các hợp đồng bảo hiểm tài sản ta có thể xác định được mức tổn thất tối đa của tài sản khi giao kết hợp đồng, còn với các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì không thể xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại tối đa là bao nhiêu. Mức trách nhiệm bồi thường được xác định theo thoả thuận của các bên và các quy định của pháp luật, trên cơ sở mức độ lỗi của người gây thiệt hại và thiệt hại thực tế của người thứ ba. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các đi kiện sau: có hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với người thứ ba; có lỗi của người gây thiệt hại; có thiệt hại thực tế đối với bên thứ ba; thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại và ngược lại hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm, đồng thời cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Trên thực tế lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán, nên người gây thiệt hại bị suy đoán là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại, trừ trường hợp họ chứng minh được thiệt hại xảy ra trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ, một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm xác định trách nhiệm bồi thường của mình.
Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.
Nếu đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người tham gia bảo hiểm phải bồi thường, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không phải chịu trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm. Việc bồi thường thiệt hại có thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cũng có thể là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người thứ ba có thể là bất kì tổ chức hoặc cá nhân nào bị thiệt hại. Còn bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì người thứ ba được xác định cụ thể là người có một quan hệ hợp đồng đối với người tham gia bảo hiểm và bị thiệt hại từ hợp đồng đó do hành vi của người tham gia bảo hiểm gây ra. Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.
Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể giới hạn trách nhiệm bảo hiểm hoặc không giới hạn trách nhiệm bảo hiểm. Để đảm bảo lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời nâng cao ý thức của người tham gia bảo hiểm, các danh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm xác định mức bồi thường tối đa của doanh nghiệp bảo hiểm đối với những hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Khi gây thiệt hại, mức trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm có thể là rất lớn, song mức trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ trong phạm vi số tiền bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự có một số nghiệp vụ bảo hiểm không xác định số tiền bảo hiểm mà trách nhiệm dân sự phát sinh bao nhiêu doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường bấy nhiêu. Trường hợp này số tiền bảo hiểm được hiểu là toàn bộ thiệt hại xảy ra. Điều khoản số tiền bảo hiểm được đặt ra nhằm mục đích giới hạn phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, để đảm bảo kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán để giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể. Đối với một số trường hợp ngoại lệ, khi doanh nghiệp bảo hiểm ký hợp đồng với người tham gia bảo hiểm, trong hợp đồng không xác định số tiền bảo hiểm cụ thể thì khi rủi ro xảy ra doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ bảo hiểm đối với toàn bộ thiệt hại.
1.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Căn cứ vào tính ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm thì bảo hiểm trách nhiệm dân sự được chia thành hai loại là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chia thành hai loại là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh theo hợp đồng và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh ngoài hợp đồng.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm cụ thể, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chia thành các loại là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, bảo hiểm trách nhiệm của chủ đóng tàu, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách, bảo hiểm trách nhiệm công cộng, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm của chủ nuôi chó, các loại bảo hiểm trách nhiệm khác.
1.4. Vai trò của bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Rủi ro khách quan luôn tiềm ẩn trong đời sống xã hội hàng ngày. Thực tế các rủi ro này có thể do rất nhiều nguyên nhân và hậu quả của nó ngày càng không thể kiểm soát được. Ngoài những rủi ro do thiên tai mang tới còn có những rủi ro do chính hành vi của con người gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần cho người khác. Pháp luật quy định: vốn, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được nhà nước bảo hộ; bất kì tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng không ngừng các vụ tai nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn nhân hoặc gia đình họ đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi thường, rồi xác định được mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi thường được tiến hành như thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt với tình trạng bồi thường cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều trường hợp nạn nhân không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai nạn, thậm chí trong những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng. Lý do rất đơn giản là người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để thực hiện nghĩa vụ luật định đối với nạn nhân. Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không may bị tai nạn cũng được đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định, và người gây tai nạn không phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm tài chính của mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình gây ra khi điều kiện tài chính không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên nếu chủ chiếc xe đó đã tham gia mua bảo hiểm bắt buộc thì mọi việc sẽ được giải quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe đền bù cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp chủ xe đã đền bù cho nạn nhân thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi thường cho chủ xe, đảm bảo khả năng tài chính của họ.
Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác. Đối với người bị thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo cho họ một tâm lý yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm họ có quyền thu phí bảo hiểm từ khách hàng song không phải lúc nào họ cũng phải đứng ra bồi thường thay cho khách hàng. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
2. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm gồm: Bên nhận bảo hiểm (bên bán bảo hiểm) và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm).
Bên nhận bảo hiểm.
Bên nhận bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là một tổ chức có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được gọi là doanh nghiệp bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm.
Bên tham gia bảo hiểm là bên đã nộp cho bên nhận bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với bên nhận bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cử nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Nếu bên tham gia bảo hiểm là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện kiểm soát và làm chủ hành vi của mình. Chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình…
2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Theo quy định của pháp luật thì hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, văn bản hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một trong ba loại hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân theo các quy định pháp luật về hình thức hợp đồng. Hiện nay, đa phần các hợp đồng bảo hiểm được thể hiện dưới hai dạng là giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong trường hợp mà việc tham gia bảo hiểm là bắt buộc theo quy định của pháp luật thì người tham gia bảo hiểm thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp đồng đó đang có hiệu lực pháp luật . Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Vì vậy hình thức của hợp đồng bảo hiểm này thường được thiết kế dưới dạng giấy chứng nhận bảo hiểm.
Ví dụ: Khi điều khiển xe cơ giới nếu không có bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để xuất trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc cho xe đó lưu hành là vi phạm.
Đơn bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm thường là hình thức của hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, có thể có các dạng khác nhau và thường bao gồm nhiều trang. Các thông tin ghi trên đơn chi tiết, cụ thể tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm: tên, địa chỉ của chủ doanh nghiệp bảo hiểm; bên mua bảo hiểm; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm; phạm vi bảo hiểm; điều kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm; mức phí và phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; giải quyết tranh chấp. Đơn bảo hiểm thường kèm theo các phụ lục để chi tiết hoá các thông tin đặc điểm của từng khách hàng cụ thể, đồng thời giải thích thuật ngữ trong đơn bảo hiểm. Nội dung đơn bảo hiểm gồm phần mở đầu; phần quy định về các điều khoản chính; phần quy định về các điều khoản loại trừ; phần quy định về các điều kiện; chữ ký, ghi rõ họ tên của người đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2.3. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hiểu theo nghĩa chung nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm. Điều bắt buộc đối với một người trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc người đó phải bằng tài sản của mình gánh chịu việc bù đắp những thiệt hại về vật chất và tổn thất tinh thần do hành vi của mình gây ra cho người khác. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ bốn yếu tố:
Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật là những hành vi xâm phạm tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác được thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật. Những hành vi có gây ra thiệt hại cho người khác nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì người thực hiện những hành vi đó không phải bồi thường. Ví dụ: hành vi gây thiệt hại trong các trường hợp trong giới hạn phòng vệ chính đáng, trong giới hạn của tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ.
Có thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng nhằm mục đích khắc phục một phần hoặc toàn bộ tổn thất tài chính cho người bị thiệt hại. Do đó, chỉ khi có thiệt hại xảy ra thì mới phải bồi thường; vì vậy cần phải xác định xem có thiệt hại xảy ra hay không và thiệt hại là bao nhiêu. Thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền , bao gồm: những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi phí nhằm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là hậu quả trực tiếp do hành vi trái pháp luật của họ gây ra, hay hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra hậu quả đó.
* Có lỗi của người gây thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi cố ý hoặc vô ý gây ra, cũng có thể do nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do cây cối, súc vật gây ra. Song với bản chất của bảo hiểm là chỉ bảo hiểm rủi ro nên phạm vi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm chỉ bao gồm các thiệt hại do hành vi vô ý; do súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra; không bảo hiểm với những thiệt hại do hành vi cố ý gây ra. Vậy đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do hành vi vô ý gây ra.
2.4. Sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, song bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu…Mua bảo hiểm chính là phòng tránh rủi ro trước khi nó xảy ra. Điều 571BLDS quy định: “ sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm ”. Theo đó, một sự kiện xảy ra trên thực tế chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu nó là sự kiện khách quan và khi sự kiện đó xảy ra đã gây thiệt hại, tổn thất thực tế. Mặt khác, bên bảo hiểm chỉ phải trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra trong phạm vi bảo hiểm đã được các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định và trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đó. Hiểu một cách chung nhất thì sự kiện bảo hiểm là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Hay sự kiện bảo hiểm chính là rủi ro được bảo hiểm.
2.5. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và loại trừ trách nhiệm bảo hiểm.
* Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế chuyển giao trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ người tham gia bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo hiểm, bản thân bảo hiểm không loại trừ được những thiệt hại xảy ra nhưng thông qua đó bảo đảm việc khắc phục về mặt tài chính đối với những thiệt hại đó. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên mua bảo hiểm phải hình dung được trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình sẽ được bảo hiểm là gì và nếu có thiệt hại xảy ra thì sẽ được bên bảo hiểm chi trả một lượng tài chính là bao nhiêu. Ngược lại, bên bảo hiểm cũng phải xác định được phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình nhận là gì và lượng tài chính mà mình sẽ chi trả cho bên được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra là bao nhiêu. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là công việc không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm nói chung; đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bởi trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra trong đời sống dân sự rất phong phú, đa dạng; và doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm đối với những khoản tài chính mà theo quy định của pháp luật người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba bị thiệt hại, bao gồm cả những chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp để xác định trách nhiệm bồi thường đối với người thứ ba và lãi phải trả cho người thứ ba do người tham gia bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm có ưu điểm là làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm và họ có thể đánh giá được mức độ bồi thường tối đảtong từng tình huống có phát sinh trách nhiệm đối với từng hợp đồng cụ thể. Mặt khác nhà bảo hiểm cũng có thể chia sản phẩm của mình thành nhiều mức khác nhau cho phù hợp với thị trường. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có quy định mức giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm sẽ chỉ được bảo hiểm trong phạm vi giới hạn bảo hiểm đó mà không được bảo hiểm cho toàn bộ trách nhiệm dân sự của mình đối với người thứ ba, do đó họ phải tự thực hiện phần trách nhiệm vượt quá giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba.
* Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm được coi là phần loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm trong đó liệt kê các trường hợp bên bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. (Khoản 1 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Việc xác định thiệt hại không được bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Phần loại trừ này nhằm hạn chế phạm vi những thiệt hại có thể xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm, đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi lẽ, nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn chế thì tần suất rủi ro sẽ rất lớn dẫn đến sự kiện bảo hiểm trong một hợp đồng luôn có thể xảy ra. Thông qua phần loại trừ này, doanh nghiệp bảo hiểm giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn chế mức phí sẽ phải rất cao, như vậy sẽ hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo hiểm của những người có nhu cầu bảo hiểm. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một trong những điều khoản bắt buộc phải có của hợp đồng bảo hiểm nói chung và đã được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm. Điều khoản được đặt ra nhằm mục đích cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm có ý định trục lợi bảo hiểm bằng những hành vi cố ý. Điều này nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp bảo hiểm, lợi ích của các khách hàng trung thực, đồng thời bảo vệ trật tự của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cũng như đảm bảo các giá trị nhân văn, bảo vệ các giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Điều khoản loại trừ cũng có thể bao gồm việc từ chối trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp có thảm hoạ, có thể gây tổn thất trên diện rộng và làm mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ: sóng thần, động đất, núi lửa… thiệt hại vô cùng lớn. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả số tiền bảo hiểm cho các trường hợp này thì rất có thể sẽ đưa đến việc mất khả năng thanh toán do cùng một lúc phải chi trả một khoản tiền quá lớn. Do đó, khi tính phí bảo hiểm theo tỷ lệ rủi ro thông thường doanh nghiệp bảo hiểm cần phải quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm đối với trường hợp này nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh, cũng chính là bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thường được pháp luật quy định tương ứng với từng loại nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể, trên cơ sở đó các doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể hoá phần loại trừ trong các hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy nếu trong hợp đồng bảo hiểm mà không xác định điều khoản loại trừ đã được pháp luật quy định thì bên bảo hiểm vẫn không phải bồi thường đối với các tổn thất xảy ra trong trường hợp đã được pháp luật loại trừ. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp: bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý; bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm. (Khoản 3 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
2.6. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Quyền của bên bảo hiểm là sự đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm và bên được bảo hiểm và ngược lại.
* Việc lựa chọn giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất lượng cao nhất. Quyền này đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm: mức phí thấp hơn, thủ tục bồi thường nhanh chóng, hợp tình, hợp lý hơn, kịp thời khắc phục được những tổn thất về tài chính đối với bên tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đồng thời bên mua bảo hiểm cũng có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm để tìm hiểu những thông tin cần thiết, xem xét hợp đồng bảo hiểm đó có phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình hay không.
Để bên mua bảo hiểm thực hiện được quyền này thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác về hợp đồng và giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm.
Sau khi đã tìm hiểu và quyết định mua bảo hiểm tại một doanh nghiệp bảo hiểm cụ thể, thì bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên nhận bảo hiểm các thông tin chi tiết liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ phải thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời, bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho mình.
Về phía mình, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; và có nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm sau khi giao kết hợp đồng và thu phí bảo hiểm.
* Phí bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm; còn bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức nộp phí bảo hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ.
Trong hợp đồng bảo hiểm thì phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là các yếu tố để xác định phí bảo hiểm và theo đó xác định số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm là lợi ích mà các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm hướng tới khi giao kết một hợp đồng bảo hiểm. Để đảm bảo tính lợi nhuận và sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán phí bảo hiểm với một mức thích hợp. Phí bảo hiểm được tính toán dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, song nguồn tài chính thu được từ phí bảo hiểm theo mức đã được tính toán tối thiểu phải có dư sau khi đã chi phí cho các hoạt động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Để xác định một mức phí bảo hiểm bảo đảm có lợi nhuận, còn cần phải cân nhắc đến các yếu tố quan trọng như: sự trượt giá của đồng tiền, sự thay đổi lãi suất vốn vay bởi khoản tiền thu được từ phí bảo hiểm hiện tại được dùng để bồi thường thiệt hại xảy ra trong tương lai. Phí bảo hiểm là khung giá định cho một sản phẩm bảo hiểm nhất định. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì phí bảo hiểm được xác định theo mức trách nhiệm mà pháp luật quy định. Đối với mỗi loại sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự khác nhau, phí bảo hiểm được xác định trên những căn cứ khác nhau xuất phát từ những cơ sở để xác định trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm.
Phí bảo hiểm trách nhiệm công cộng khó xác định cụ thể và mức phí thay đổi một cách đáng kể tuỳ thuộc vào từng rủi ro. Phí bảo hiểm được xác định căn cứ vào số tiền bảo hiểm, nghề nghiệp của người tham gia bảo hiểm, quy trình kinh doanh, vị trí, phạm vi hoạt động, loại hình sản xuất kinh doanh của người tham gia bảo hiểm, doanh thu của người tham gia bảo hiểm, khả năng xuất hiện bên thứ ba tại địa điểm sản xuất kinh doanh…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm thường được tính trên cơ sở doanh thu, khối lượng sản phẩm sản xuất ra.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp được xác định dựa trên quy mô hoạt động nghề nghiệp của chủ thể tham gia; số lượng và trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm công tác của các thành viên; cơ sở vật chất để tổ chức tiến hành nghề nghiệp; giới hạn bồi thường…
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Ngoài ra, mức phí còn tính theo tỷ lệ phần trăm mức phí theo năm đối với thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn.
Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động đối với người lao động về cơ bản được tính căn cứ vào số tiền bảo hiểm đã thoả thuận, đồng thời căn cứ vào thời hạn bảo hiểm và loại nghề nghiệp của người lao động. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không là số tiền mà hãng hàng không phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không được xác định trên các yếu tố: mức giới hạn trách nhiệm; số vụ tai nạn và mức độ tổn thất của các vụ tai nạn trong khu vực và trên thế giới; việc đào tạo và kinh nghiệm của phi công; loại máy bay được sử dụng trong việc chuyên chở; số lượng hàng hoá, hành lý chuyên chở trong năm; số lượng và loại hành khách; tuyến bay, tần suất bay; vị trí pháp lý của hãng hàng không.
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là khoản tiền do bên bảo hiểm thu trên cơ sở biểu phí do Bộ tài chính quy định áp dụng cho từng loại tàu, nhóm tàu theo các điều kiện bảo hiểm cụ thể. Phí bảo hiểm có thể tăng hoặc giảm tuỳ vào tình hình tổn thất hàng năm của các đội tàu tham gia bảo hiểm.
* Trả tiền bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật. (Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm).
Còn bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở cho việc xét bồi thường. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trả tiền bảo hiểm so với thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật đã quy định thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền tương ứng với thời gian chậm trả.
Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, nhằm nâng cao ý thức của người mua bảo hiểm, tránh tình trạng người tham gia bảo hiểm chuyển hết mọi trách nhiệm sang cho doanh nghiệp bảo hiểm, pháp luật quy định bên mua bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp phòng ngừa thiệt hại và các biện pháp cần thiết khác để hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại. Bên mua bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp đó trong thời gian đã được doanh nghiệp bảo hiểm khuyến nghị. Nếu bên mua bảo hiểm không thực hiện và sự kiện bảo hiểm chưa xảy ra thì phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để xem xét tính tăng phí bảo hiểm hoặc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
* Chuyển yêu cầu bồi hoàn.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bên bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm hoặc trực tiếp trả lời cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm thiệt hại mà bên mua bảo hiểm gây ra cho người thứ ba theo quy định của pháp luật. Người thứ ba trong trường hợp này không phải là chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự nhưng là chủ thể của quan hệ nghĩa vụ bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người thứ ba là bên có quyền được hưởng việc bồi thường theo mức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không hoàn toàn do lỗi của bên mua bảo hiểm hoặc thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của chủ thể khác thì người mua bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong trường hợp người khác cùng có lỗi gây thiệt hại cho người thứ ba và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người đó bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm.
* Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, đẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm.
2.7. Hiệu lực của hợp đồng.
* Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
- Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Bên nhận bảo hiểm chỉ có thể là doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện như đã trình bày ở phần trên. Bên tham gia bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Đối với cá nhân, BLDS quy định về năng lực tham gia giao dịch của các chủ thể với nguyên tắc: người tham gia giao dịch phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Vậy một cá nhân đạt được sự phù hợp giữa ý chí và lý trí được coi là người có đủ năng lực hành vi dân sự.
- Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp luật nếu mục đích và nội dung của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những trật tự xã hội, thuần phong mỹ tục được hình thành trên cơ sở kinh tế nhất định và được cộng đồng xã hội thừa nhận. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì mục đích của các chủ thể khi tham gia hợp đồng là nhằm bảo hiểm đối với những tổn thất về tài chính có thể xảy ra do có những hành vi gây thiệt hại cho người khác, thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của mình. Mọi trường hợp tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm thì đều vi phạm pháp luật.
- Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Điều kiện về hình thức của hợp đồng bảo hiểm.
Hình thức của hợp đồng bảo hiểm đã được quy định bắt buộc là bằng văn bản nên nếu hợp đồng bảo hiểm được giao kết bằng hình thức khác sẽ không có hiệu lực pháp luật. Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax, các hình thức khác do pháp luật quy định.
* Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.
- Thời điểm bắt đầu.
Thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với những người có quyền, nghĩa vụ từ hợp đồng đó. Đối với hợp đồng bảo hiểm lại càng quan trọng hơn, bởi các rủi ro mà người tham gia bảo hiểm gặp phải chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu rủi ro đó xảy ra sau thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. Theo Điều 405 BLDS thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự là từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Hiện chưa có quy định riêng của pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nên đối với các hợp đồng bảo hiểm mà các bên không có thoả thuận khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực được xác định theo thời điểm giao kết. Hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải giao kết bằng hình thức văn bản nên về nguyên tắc thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm được xác định là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản được coi là bằng chứng của hợp đồng.
- Thời điểm kết thúc.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt theo các trường hợp được quy định tại Điều 424 BLDS 2005 và Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm. Theo đó thời điểm chấm dứt của hợp đồng bảo hiểm gồm các trường hợp sau:
+ Hợp đồng được hoàn thành: Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì hợp đồng hoàn thành khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm hoặc hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đó.
+ Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì hợp đồng đó được coi là chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của bên này.
+ Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi đối tượng được bảo hiểm không còn.
Trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm không còn khi chủ thể tham gia bảo hiểm không có khả năng gây thiệt hại cho người khác từ hoạt động tương ứng với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm mà họ tham gia. Tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cụ thể để xác định đối tượng của hợp đồng bảo hiểm bị coi là không còn khi nào.
+ Bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Đối với những hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm gắn liền với tài sản cụ thể, khi tài sản đó được chuyển giao quyền sở hữu cho người khác nếu không có thoả thuận về việc đồng thời chuyển giao trách nhiệm được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế.
+ Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi bị huỷ bỏ.
Kết luận.
Hợp đồng bảo hiểm là một loại hợp đồng dân sự thông dụng. Trong điều kiện hiện nay, khi mà chất lượng cuộc sống tốt hơn thì mỗi chủ thể ngày càng quan tâm tới những vấn đề về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, trách nhiệm dân sự… của mình. Và để có thể yên tâm hơn, tránh được những rủi ro không ngờ đến thì họ đã chọn cho mình giải pháp là hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm có đối tượng là trách nhiệm dân sự là một loại bảo hiểm trách nhiệm phổ biến trong đời sống xã hội. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế bảo đảm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời những tổn thất do bên mua bảo hiểm gây ra cho bên thứ ba. Với ý nghĩa đó, dù không khắc phục được hoàn toàn tổn thất xảy ra, song bảo hiểm trách nhiệm dân sự góp phần bình ổn tài chính cho cả bên được bảo hiểm và bên thứ ba khi người tham gia bảo hiểm gây ra thiệt hại. Trong cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự ngày càng đa dạng và phức tạp. Nhiều loại hình bảo hiểm trách nhiệm mới ra đời cùng với nhu cầu bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong đời sống và kinh doanh. Tuy nhiên quy định của pháp luật hiện nay vẫn chưa thực sự chi tiết để điều chỉnh các quan hệ xã hội này. Trước thềm hội nhập của nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng có nhiều triển vọng phát triển mạnh mẽ. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm càng đa dạng, phong phú thì trách nhiệm phát sinh từ các hoạt động đó càng nhiều. Vì vậy để bảo hiểm cho trách nhiệm ấy, các doanh nghiệp sẽ tham gia nhiều hơn vào thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự để đảm bảo an toàn khả năng tài chính của mình. Trong một tương lai không xa, thị trường kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự sẽ phát triển vượt bậc hơn nữa./.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Bộ Luật Dân Sự 2005.
3. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000.
4. Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, TS. Phạm Văn Tuyết, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007.
5. Hướng dẫn pháp luật hợp đồng dân sự và cơ chế giải quyết tranh chấp trong bộ luật tố tụng dân sự, Đặng Văn Được – Tạ Thị Hồng Vân, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội, 2006.
6. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Nguyễn Thị Nhung, Luận văn thạc sĩ.
(theo: ThoLaw)
LUẬT BẮC VIỆT ( BVL LAWFIFM)
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
-------------------------------------------
Liên hệ với Luật sư :
P: 0938188889 - 0913753918
M: ceo@bacvietluat.vn – lawyer.@bacvietluat.vn
|
Bình luận
Bình luận bằng Facebook