Chỉ ghi tên người được quyền sử dụng đất
Vợ chồng tôi đăng ký kết hôn năm 1988 và trước nay chung sống trên thửa đất tại phường Quang Vinh, TP Biên Hòa, Đồng Nai.
Tháng 6-2009, UBND TP Biên Hòa lại cấp giấy đỏ thửa đất trên cho riêng vợ tôi mà không báo cho tôi biết. Cách giải quyết này đúng hay sai?
Ông Trần Đức Thịnh (22/8A Nguyễn Ái Quốc, Biên Hòa, Đồng Nai)
Ông VÕ PHƯƠNG TÙNG, Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất TP Biên Hòa, trả lời:
Theo Quyết định số 08 ngày 21-7-2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường (quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng thì ghi họ, tên, năm sinh và số ngày cấp, nơi cấp giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ nơi đăng ký thường trú của vợ và chồng. Nếu người sử dụng đất đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ/chồng thì phải có văn bản thỏa thuận của hai vợ chồng có chứng thực của UBND xã nơi cư trú hoặc chứng nhận của công chứng.
Nếu có giấy tờ quyền sử dụng đất, các tranh chấp đất đai có thể đưa ra tóa án giải quyết. Ảnh minh họa: HTD
Nhưng cần lưu ý, thửa đất mà vợ ông được cấp giấy đỏ không phải là tài sản chung của vợ chồng mà là tài sản riêng của người vợ. Cụ thể, đó là số đất mà vợ ông được cha mẹ đẻ cho sử dụng từ năm 1953. Năm 1997, cha mẹ đẻ của bà ấy đã làm giấy ủy quyền cho con gái được quyền sử dụng đất riêng. Do đó, UBND TP Biên Hòa chỉ ghi mỗi tên người vợ vào giấy đỏ.
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
Năm 1998, tôi mua đấu giá nhà, đất của nhà nước (đã có giấy đỏ) và sống ổn định đến năm 2006. Sau đó, hộ sát bên kiện tôi ra tòa và tòa đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Việc xét xử này đúng hay sai vì người hàng xóm đó chưa có giấy đỏ?
Ông Phan Văn Tấn (Thôn 3, Hàm Liêm, Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận)
Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HÙNG, Đoàn Luật sư TP.HCM, trả lời:
Theo Điều 136 Luật Đất đai, tranh chấp đất đai giữa các cá nhân với nhau đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết bởi một trong hai cơ quan theo quy định.
Nếu tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của luật này (như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời; giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở v.v...) và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết. Nếu tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của luật này thì do chủ tịch UBND cấp huyện và sau nữa là chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết.
Như vậy, nếu diện tích đất tranh chấp đã có giấy đỏ (không phân biệt đối tượng được cấp giấy là người tranh chấp hay người bị tranh chấp) thì TAND được quyền giải quyết tranh chấp theo quy định nêu trên.
M.HIẾU ghi
LUẬT BẮC VIỆT ( BVL LAWFIFM)
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
-------------------------------------------
Liên hệ với Luật sư :
P: 0938188889 - 0913753918
M: ceo@bacvietluat.vn – lawyer.@bacvietluat.vn
|
Bình luận
Bình luận bằng Facebook