Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây rất nhiều tranh luận giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2005 (sau đây viết tắt là BLDS 2005). Tuy nhiên, sau khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để, nên vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế (1).
Hệ quả là, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung không thể yêu cầu chia di sản do người chết trước để lại, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc của người vợ hay chồng đã chết trước không được yêu cầu chia thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng đã chết và nếu ngoài di chúc chung, một bên vợ, chồng chết trước còn để lại nhiều di chúc khác nhau thì vấn đề xác định hiệu lực của các di chúc sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Chúng tôi xin được tập trung làm rõ thêm những bất cập trong quy định của BLDS 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợC, chồng và đưa ra một số kiến nghị cụ thể.
1. Những bất cập của quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn giản hoá việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995 (2).
Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại một thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:
Thứ nhất: việc phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước, sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực dựa vào thời điểm “bên sau cùng” chết, thì có thể phải tiến hành chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Việc chia thừa kế lần đầu được tiến hành đối với phần di sản là tài sản riêng của người chết trước hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế của người đó. Các lần chia thừa kế sau được áp dụng đối với phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực (vào thời điểm bên sau cùng chết).
Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại phát sinh từ thời điểm mở thừa kế (3).
Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vừa có di sản định đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có những tài sản chung không được đưa vào di chúc chung, hoặc một phần tài sản liên quan đến phần di chúc chung bị vô hiệu… thì có thể dẫn đến hậu quả là khối di sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần.
Điều này dẫn đến hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước sẽ phải kiện xin chia thừa kế nhiều lần, toà án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên cùng một khối tài sản của người chết trước. Từ đó không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế (trong việc xác định di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba…), thậm chí có thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc không thụ lý, xét xử nhiều lần cho cùng một vụ việc (nhất sự bất tái cứu) theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự (4).
Thứ hai: quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật hiện hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Ví dụ: ông A, bà B lập di chúc chung để lại di sản cho các con chung của ông A, bà B và cha, mẹ của ông A. Sau đó, ông A chết. Vấn đề phức tạp phát sinh là cha mẹ của ông A cần khoản tiền để chữa bệnh, nên muốn được chia thừa kế di sản của ông A. Nhưng do bà B vẫn còn sống, di chúc chung của A và B chưa có hiệu lực, nên cha mẹ của ông A không thể xin chia di sản của ông A theo di chúc chung nói trên. Vì thế, quyền được hưởng thừa kế của cha mẹ ông A không được bảo đảm.
Đó là chưa kể các trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ hay một phần, nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện, thì trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước đã bị bỏ lỡ mà không còn cơ hội để khắc phục được, nếu người thừa kế đó đã chết. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp – một quyền hiến định cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ (5).
Thứ ba: gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không. Ngoài ra, việc xác định tư cách người thừa kế cũng gặp khó khăn ngay cả đối với người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung, nếu họ chết sau người vợ hoặc chồng quá cố, nhưng lại chết trước khi di chúc chung có hiệu lực… Đây là những vấn đề phức tạp, nhưng quy định hiện hành không thể giải quyết được. Bởi vậy, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc như hiện nay thì cần phải tính đến quyền lợi của những người được di chúc chung chỉ định hưởng thừa kế.
Thứ tư: sự mâu thuẫn giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống pháp luật.
Theo các quy định liên quan, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (6).
Người thừa kế chỉ có thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn luật định thì được coi là đã nhận di sản (7).
Theo đó, giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế so với thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là khác nhau, dẫn tới sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực hiện các quyền này. Mặt khác, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung rõ ràng cũng không nhất quán với quyền từ chối hưởng di sản, vì vào thời điểm di chúc chung có hiệu lực, người thừa kế (nếu còn sống) cũng không thể thực hiện quyền từ chối thừa kế được (8).
Mặt khác, BLDS 2005 quy định di chúc chung có hiệu từ khi người sau cùng chết, nhưng theo quy định của Luật Nhà ở 2005 thì người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế là nhà ở, kể từ thời điểm mở thừa kế (9). Như vậy, thời điểm có quyền sở hữu nhà phát sinh trước thời điểm di chúc chung có hiệu lực. Xét trên phương diện quyền sở hữu và quyền thừa kế, có thể thấy, khi người chủ tài sản chết sẽ làm chấm dứt tư cách sở hữu chủ của người đó đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, đồng thời làm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế. Thế nên, quy định của BLDS 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như trên là một vướng mắc rất khó giải quyết, nên cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho thống nhất với các quy định khác.
Thứ năm: việc xác định di chúc chung có hiệu lực vào thời điểm bên sau cùng chết sẽ làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn (10). Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật quy định rõ. Vấn đề đã được chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời hiệu khởi kiện thừa kế (11).
Thứ sáu: ảnh hưởng đến sự bảo toàn giá trị của khối di sản là tài sản chung.
Khi tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp. Việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó… Qua đó sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm. Thực chất nguyên nhân của những mâu thuẫn này xuất phát từ việc pháp luật quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, trong khi quyền thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế. Bởi vậy, cần phải cân nhắc sửa đổi quy định về thời điểm có hiệu lực pháp luật của di chúc chung một cách chặt chẽ, hợp lý hơn.
2. Một số kiến nghị
2.1. Về những định hướng chung
2.1.1. Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về di chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong BLDS 2005
Tuy di chúc chung của vợ, chồng cũng có những đặc điểm giống như một di chúc thông thường do cá nhân lập ra, nhưng di chúc chung còn có những đặc thù, như: (i) do ý chí của hai cá nhân là vợ – chồng cùng tham gia định đoạt, dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực của hai người đó; (ii) dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ, chồng; (iii) vợ, chồng có thể thỏa thuận các nội dung của di chúc chung; (iv) chỉ được sửa đổi khi có sự đồng của vợ chồng (nếu cả hai đều còn sống), và được sửa đổi riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản chung (nếu một bên đã chết)…
Như đã xác định, di chúc chung cũng là một loại di chúc, nên phải tuân thủ các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của di chúc, về thời điểm phát sinh quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức, về thời hiệu khởi kiện thừa kế, về thực hiện việc phân chia tài sản theo di chúc, về quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc… Ngoài ra, còn có những nội dung khác liên quan đến thời hiệu khởi kiện, sự bảo toàn giá trị khối di sản là tài sản chung cho đến khi chia di sản theo di chúc chung, quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc, quyền khởi kiện để xin tòa án tuyên bố di chúc vô hiệu do được lập không hợp pháp.
Bởi vậy, cần quán triệt quan điểm tách quy định về di chúc chung thành một mục riêng nhằm đảm bảo tính đặc thù của các quy định này, đồng thời dự liệu đầy đủ các nội dung khác nhau của di chúc chung. Cụ thể, quy định về di chúc chung sẽ được thiết kế thành một mục riêng – mục 2 của Chương thừa kế theo di chúc trong BLDS 2005. Theo đó, Chương thừa kế theo di chúc sẽ có hai mục là: mục 1 quy định chung về di chúc và thừa kế theo di chúc; mục 2 quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy định về di chúc chung của vợ chồng phải được quy định sao cho nhất quán với các quy định khác có liên quan.
2.1.2. Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là một vấn đề pháp lý quan trọng nhằm xác định thời điểm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế theo di chúc chung, cũng như có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác lập quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của mỗi bên vợ hoặc chồng. Bởi vậy, cần thừa nhận cả hai khả năng là vợ, chồng có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung và trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận về vấn đề này trong di chúc chung. Mục đích là làm cho quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vừa bảo đảm tính đặc thù của việc thể hiện ý nguyện chung của vợ, chồng, nhưng cũng đảm bảo tính thống nhất với các quy định khác có liên quan. Ví dụ: di chúc chung có thể định đoạt tài sản chung và cả tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng, trong trường hợp vợ, chồng có đề cập đến tài sản riêng trong di chúc chung đó; hoặc hiệu lực (một phần) của di chúc chung có thể được xác định vào thời điểm một bên vợ hoặc chồng chết. Nhưng nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung hoặc thỏa thuận về thời điểm phân chia di sản thì cần phải tôn trọng thỏa thuận đó…
Sự kết hợp mềm dẻo giữa quy định về di chúc cá nhân, quyền thừa kế của cá nhân với việc lập di chúc chung, hiệu lực và thực thi di chúc chung có một số đặc thù, sẽ làm cho quy định về di chúc chung không mâu thuẫn với quy định chung về thừa kế, nhưng vẫn bảo đảm được các nội dung cần thiết và những dấu hiệu riêng biệt của loại di chúc đặc thù này. Để đạt được yêu cầu đó, nhà làm luật cần quán triệt quan điểm xem di chúc chung của vợ, chồng như là trường hợp đặc biệt của di chúc cá nhân, là sự cộng lại của hai di chúc cá nhân, có tính đến sự đặc thù về hiệu lực của quan hệ hôn nhân giữa những người lập di chúc chung, cũng như đối tượng của di chúc ở đây là tài sản chung của vợ, chồng.
2.1.3. Ngoài việc quy định rõ ràng về các trường hợp cụ thể đặc thù của di chúc chung, pháp luật cần giải quyết rốt ráo các vấn đề bất cập phát sinh từ việc thừa nhận các đặc thù đó.
Khi luật thừa nhận những tính chất, dấu hiệu đặc thù của di chúc chung sẽ dẫn đến một số điểm khác biệt trong việc áp dụng pháp luật và hậu quả pháp lý của của việc áp dụng các quy định khác biệt đó. Trong những trường hợp như vậy, nhà làm luật cần tính đến những hệ quả kéo theo khi chấp nhận các quy định đặc thù này. Ví dụ: khi một phần nội dung có định đoạt đến tài sản riêng thì việc xác định thời điểm hiệu lực của phần di chúc riêng này dẫn đến hậu quả như thế nào, nếu như vợ, chồng thỏa thuận với nhau về thời điểm di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết; hoặc nếu vợ, chồng không thỏa thuận được về việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và một bên đã tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung thì phần sửa đổi, bổ sung đó có giá trị không; hoặc nếu một người để lại nhiều tờ di chúc chung với nhiều người vợ, chồng hợp pháp khác nhau của họ mà trong đó thỏa thuận nhiều thời điểm có hiệu lực khác nhau, đồng thời họ còn lập cả di chúc riêng để định đoạt tài sản riêng, thì các di chúc này được thực hiện như thế nào… cũng cần phải được dự liệu.
Việc dự liệu các tình huống trên một mặt khắc phục những bất cập của quy định hiện hành về vấn đề hiệu lực của di chúc chung, đồng thời qua đó cũng hoàn thiện việc xây dựng một mục riêng để quy định về vấn đề di chúc chung, như đã kiến nghị ở mục 2.1.1. trên đây.
2.2. Các kiến nghị cụ thể
2.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung theo hướng dự liệu cả trường hợp có thỏa thuận và không thỏa thuận giữa vợ, chồng về thời điểm này
Theo đó, Điều 668 BLDS 2005 được sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Điều 668 (sửa đổi, bổ sung): Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng:
“Khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vợ, chồng không có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ phần di chúc chung có liên quan đến phần di sản của người chết trước được định đoạt trong di chúc chung có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc chung về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng chỉ được phân chia từ thời điểm đó. Việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của các bên vợ, chồng trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình khi một bên vợ hoặc chồng chết trước”.
Nội dung điều luật được đề nghị sửa đổi nói trên vừa hóa giải sự xung đột giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với các quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền thừa kế, mốc tính thời hiệu khởi kiện, mốc để tính thời hạn từ chối di sản, quyền yêu cầu chia thừa kế, quyền được hưởng thừa kế bắt buộc…, nhưng cũng vừa thể hiện sự mềm dẻo của luật pháp. Qua đó, tạo cơ hội để những người thừa kế hợp pháp của mỗi bên vợ hoặc chồng được quyền khởi kiện để chia thừa kế bắt buộc, yêu cầu tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu hoặc yêu cầu tòa án tước quyền thừa kế của người được chỉ định thừa kế theo di chúc chung nhưng có hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 643 BLDS 2005.
2.2.2. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của phần di chúc do một bên sửa đổi, bổ sung mà không được sự đồng ý của người kia
Pháp luật hiện hành không thừa nhận một bên vợ hoặc chồng có quyền tự ý sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung mà không được sự đồng ý của người kia. Việc này đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với phần tài sản riêng của mình. Mặt khác, người ta có thể lẩn tránh pháp luật bằng cách định đoạt phần tài sản của họ bằng cách khác, như tặng cho, hoặc bán…
Để đảm bảo quyền tự do định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc được lập phù hợp với ý chí đích thực, tự nguyện của mỗi bên vợ – chồng, bên cạnh việc quy định vợ, chồng cùng nhau thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung, thiết nghĩ cũng cần phải thừa nhận quyền tự do của mỗi bên vợ, chồng trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần quyền của mình trong khối tài sản chung, dù không được sự đồng ý của bên kia. Đồng thời với việc thừa nhận mỗi bên vợ hoặc chồng có quyền tự do sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc chung trong phạm vi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, luật cũng cần phải quy định hệ quả pháp lý của việc này, nhất là việc xác định thời điểm có hiệu lực của từng phần di chúc chung sau khi di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, sửa đổi Điều 664 BLDS 2005 như sau:
Điều 664: “1. (nội dung khoản 1 giữ nguyên).
Khoản 2. (sửa đổi, bổ sung – đoạn in nghiêng): “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Một bên cũng có quyền tự mình sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của mình. Việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung theo ý chí của một bên chỉ có giá trị trong phạm vi phần sửa đổi, bổ sung nhưng không vượt quá phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung”.
Khoản 3. (kế thừa quy định của Điều 671 BLDS 1995):
“Nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, mà có một bên vợ chồng đã chết, thì người vợ hay chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
Khoản 4. (bổ sung quy định mới về hiệu lực của phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung và phần không bị sửa đổi bổ sung):
“Thời điểm có hiệu lực của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung và phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung theo thỏa thuận của vợ, chồng được xác định theo Điều 668 Bộ luật này. Phần di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ hoặc chồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 667 Bộ luật này”.
Quy định như trên nhằm đảm bảo quyền tự do định đoạt cá nhân trong việc để lại di sản thừa kế, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa quy định này với các quy định khác có liên quan, như quy định về quyền sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản chung, quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại… Hơn thế nữa, quy định này còn tạo cơ hội để một bên có thể sửa chữa những quyết định sai lầm của mình khi lập di chúc chung: được sửa đổi, bổ sung di chúc chung mặc dù không được bên kia đồng ý.
Đồng thời với việc sửa đổi quy định tại Điều 664 như vừa nêu, vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong trường hợp có sửa đổi, bổ sung cũng được quy định cụ thể theo hướng: ổn định giá trị pháp lý của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung; nếu việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung có sự thỏa thuận của vợ, chồng thì thời điểm có hiệu lực của nó được xác định theo nguyên tắc chung (Điều 668); đồng thời tách riêng phần di chúc được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ, chồng để xem xét như một di chúc cá nhân.
2.2.3. Bổ sung thêm quy định về thời điểm có hiệu lực của các di chúc có liên quan, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ, chồng để lại nhiều di chúc khác nhau
Trong trường hợp một người để lại di chúc chung và nhiều di chúc cá nhân khác nhau hoặc để lại nhiều di chúc chung khác nhau (hoặc nhiều di chúc chung với nhiều người vợ hay người chồng hợp pháp khác nhau của người đó)(12) thì sự ảnh hưởng hiệu lực giữa các di chúc này với nhau ra sao, và thời điểm phát sinh hiệu lực của các di chúc là thời điểm nào, là vấn đề phức tạp nhưng vẫn chưa được quy định cụ thể trong luật hiện hành. Thiết nghĩ, giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của mỗi tờ di chúc trong trường hợp này phải được xem xét như những di chúc riêng biệt của một cá nhân, dựa trên mối tương quan về nội dung, cũng như thời điểm mà mỗi tờ di chúc được lập. Tùy nội dung các di chúc có mâu thuẫn nhau hay không, tùy thời điểm lập các di chúc là trước hay sau, mà quy định cụ thể về giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của từng tờ di chúc đó một cách hợp lý, tương tự như di chúc của cá nhân. Nội dung này được thiết kế thành điều luật mới. Nội dung điều luật có thể được diễn đạt ngắn gọn bằng phương pháp dẫn chiếu điều luật quy định về những nội dung tương ứng của di chúc cá nhân.
Điều 688 a. (bổ sung mới) “Nếu một người vừa lập di chúc chung, vừa lập di chúc riêng hoặc lập nhiều di chúc chung với nhiều người khác nhau, thì việc xác định giá trị pháp lý của mỗi tờ di chúc được dựa theo quy định tại các Điều 662, Điều 664, khoản 5 Điều 667 và Điều 688 của Bộ luật này” (13).
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết những những di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau, trong trường hợp các di chúc đó được lập vào những thời điểm khác nhau bởi mỗi bên vợ hoặc chồng, hoặc bởi cả hai vợ, chồng. Theo đó, nếu nội dung của các tờ di chúc không mâu thuẫn nhau, thì các di chúc đó đều có giá trị pháp lý; nếu nội dung của các di chúc mâu thuẫn nhau thì di chúc sau cùng là di chúc có giá trị pháp lý; nếu một phần di chúc trước có mâu thuẫn với di chúc sau, thì phần di chúc trước đó không có giá trị pháp lý còn di chúc sau và phần di chúc trước không mẫu thuẫn với di chúc sau có giá trị pháp lý. Quy định như trên cũng tạo ra sự thống nhất với quy định mới về quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung của một bên vợ hoặc chồng.
2.2.4. Cần quy định rõ ràng về hệ quả của việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế
Nếu thừa nhận vợ, chồng có thể thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết thì cần phải xác định rõ hậu quả của quy định này đối với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế. Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế (14).
Tuy pháp luật cũng thừa nhận 3 trường hợp có thể làm gián đoạn thời hiệu khởi kiệnT (15) và hai trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện (16), nhưng việc quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không hoàn toàn thuộc những trường hợp gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu vừa nêu. Và nếu không được quy định minh bạch, vấn đề này sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Để tạo căn cứ pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng quy định pháp luật về cách tính thời hiệu khởi kiện thừa kế, thiết nghĩ nhà làm luật cần bổ sung quy định về căn cứ làm gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thừa kế, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, nếu vợ, chồng có thỏa thuận. Cụ thể:
Điều 645 (bổ sung):
“1. (nội dung quy định hiện hành được giữ nguyên và thiết kế thành khoản 1 của Điều luật).
Khoản 2. (bổ sung): Thời hiệu khởi kiện thừa kế được bắt đầu lại trong các trường hợp sau:
a. Khi vợ, chồng có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, thì thời hiệu khởi kiện thừa kế bắt đầu lại từ ngày di chúc chung có hiệu lực.
Quy định này không cản trở những người thừa kế khởi kiện sớm hơn để xin chia thừa kế phần di sản không được định đoạt trong di chúc chung; hoặc khởi kiện xin tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu do di chúc không hợp pháp hoặc người thừa kế theo di chúc chung chết trước người lập di chúc, không có quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối quyền hưởng di sản; hoặc khởi kiện xin chia thừa kế theo quy định tại Điều 669 của Bộ luật này (thừa kế bắt buộc)”.
3. Kết luận
Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là vấn đề phức tạp, có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc thực thi di chúc chung của vợ, chồng, đồng thời có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề pháp lý khác, như thời hiệu khởi kiện thừa kế, quyền được hưởng di sản của những người thừa kế bắt buộc. Quy định của luật hiện hành về vấn đề này tỏ ra bất cập và chưa tính đến nhiều hệ quả pháp lý khác có liên quan, nhất là khi vợ, chồng lập nhiều di chúc khác nhau, gồm cả di chúc riêng của cá nhân và di chúc chung với người vợ hay người chồng khác (ví dụ người vợ hay người chồng sau trong trường hợp ly hôn hoặc do một bên chết trước). Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung điều luật này phải đượcxuất phát từ quan điểm mềm dẻo, tôn trọng quyền tự do lập di chúc của cá nhân, và phải đặt nó trong quan hệ tổng thể với các quy định khác có liên quan, như quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền hưởng di sản của người thừa kế, quyền được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc của những những người thừa kế bắt buộc của người để lại di sản…; đồng thời phải giải quyết toàn diện các hệ quả pháp lý đặt ra của việc thừa nhận các thời điểm có hiệu lực khác nhau của di chúc chung, của di chúc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và các di chúc khác của mỗi bên vợ hoặc chồng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong trường hợp có di chúc chung…, có tính đến những tính chất đặc thù của di chúc chung. Có như vậy mới khắc phục triệt để những bất cập của quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong Bộ luật Dân sự hiện hành.
Chú thích:
(1) “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (Khoản 1 Điều 634 BLDS 2005). Thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng: là thời điểm làm phát sinh quyền thừa kế, là mốc tính thời hiệu khởi kiện, là thời điểm để xác định giá trị di sản, xác định phạm vi những người thừa kế của người chết…
(2) Điều 671 BLDS 1995: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực…”. Theo đó, một di chúc chung phải được thực hiện nhiều lần, hoặc có thể khởi kiện chia thừa kế nhiều lần.
(4) Điểm c, khoản 1, Điều 168 và Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự 2003.
(5) Quyền thừa kế là một quyền hiến định: xem Điều 58 Hiến pháp 1992 “… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”; BLDS cụ thể hóa thành quyền dân sự cơ bản của chủ thể: xem các Điều 15 khoản 2
(12) Xem thêm điểm A, mục 4 nghị quyết 02/1990/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế (1990): theo đó, một người có nhiều vợ hay nhiều chồng, nhưng vẫn được xem là quan hệ vợ chồng hợp pháp, nếu quan hệ hôn nhân đó không bị tòa án tuyên bố hủy bỏ hôn nhân trái pháp luật bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
(13) Điều 664 và Điều 688 vừa được kiến nghị sửa đổi, bổ sung ở trên.
(14) Điều 645 BLDS 2005.
(15) Điều Điều 161 BLDS 2005.
(16) Điều 162 BLDS 2005.và Điều 631… BLDS 2005.
(6) Điều 636 BLDS 2005.
(7) Điều 642 BLDS 2005.
(8) Vì vào lúc người vợ hay chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung vẫn chưa có quyền hưởng di sản theo di chúc chung.
(9) Khoản 5 Điều 92 Luật Nhà ở năm 2005; Khoản 5, Điều 63 Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật nhà ở năm 2005.
(10) Điều 645 BLDS 2005.
(11) Xem: Lê Minh Hùng, Thời hiệu khởi kiện thừa kế – Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2004, tr. 40 – 50.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
Hệ quả là, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung không thể yêu cầu chia di sản do người chết trước để lại, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc của người vợ hay chồng đã chết trước không được yêu cầu chia thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng đã chết và nếu ngoài di chúc chung, một bên vợ, chồng chết trước còn để lại nhiều di chúc khác nhau thì vấn đề xác định hiệu lực của các di chúc sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Chúng tôi xin được tập trung làm rõ thêm những bất cập trong quy định của BLDS 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợC, chồng và đưa ra một số kiến nghị cụ thể.
1. Những bất cập của quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn giản hoá việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995 (2).
Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại một thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:
Thứ nhất: việc phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước, sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực dựa vào thời điểm “bên sau cùng” chết, thì có thể phải tiến hành chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Việc chia thừa kế lần đầu được tiến hành đối với phần di sản là tài sản riêng của người chết trước hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế của người đó. Các lần chia thừa kế sau được áp dụng đối với phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực (vào thời điểm bên sau cùng chết).
Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại phát sinh từ thời điểm mở thừa kế (3).
Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vừa có di sản định đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có những tài sản chung không được đưa vào di chúc chung, hoặc một phần tài sản liên quan đến phần di chúc chung bị vô hiệu… thì có thể dẫn đến hậu quả là khối di sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần.
Điều này dẫn đến hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước sẽ phải kiện xin chia thừa kế nhiều lần, toà án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên cùng một khối tài sản của người chết trước. Từ đó không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế (trong việc xác định di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba…), thậm chí có thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc không thụ lý, xét xử nhiều lần cho cùng một vụ việc (nhất sự bất tái cứu) theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự (4).
Thứ hai: quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật hiện hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Ví dụ: ông A, bà B lập di chúc chung để lại di sản cho các con chung của ông A, bà B và cha, mẹ của ông A. Sau đó, ông A chết. Vấn đề phức tạp phát sinh là cha mẹ của ông A cần khoản tiền để chữa bệnh, nên muốn được chia thừa kế di sản của ông A. Nhưng do bà B vẫn còn sống, di chúc chung của A và B chưa có hiệu lực, nên cha mẹ của ông A không thể xin chia di sản của ông A theo di chúc chung nói trên. Vì thế, quyền được hưởng thừa kế của cha mẹ ông A không được bảo đảm.
Đó là chưa kể các trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ hay một phần, nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện, thì trong nhiều trường hợp, quyền khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước đã bị bỏ lỡ mà không còn cơ hội để khắc phục được, nếu người thừa kế đó đã chết. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp – một quyền hiến định cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ (5).
Thứ ba: gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không. Ngoài ra, việc xác định tư cách người thừa kế cũng gặp khó khăn ngay cả đối với người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung, nếu họ chết sau người vợ hoặc chồng quá cố, nhưng lại chết trước khi di chúc chung có hiệu lực… Đây là những vấn đề phức tạp, nhưng quy định hiện hành không thể giải quyết được. Bởi vậy, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc như hiện nay thì cần phải tính đến quyền lợi của những người được di chúc chung chỉ định hưởng thừa kế.
Thứ tư: sự mâu thuẫn giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống pháp luật.
Theo các quy định liên quan, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (6).
Người thừa kế chỉ có thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn luật định thì được coi là đã nhận di sản (7).
Theo đó, giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế so với thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là khác nhau, dẫn tới sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực hiện các quyền này. Mặt khác, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung rõ ràng cũng không nhất quán với quyền từ chối hưởng di sản, vì vào thời điểm di chúc chung có hiệu lực, người thừa kế (nếu còn sống) cũng không thể thực hiện quyền từ chối thừa kế được (8).
Mặt khác, BLDS 2005 quy định di chúc chung có hiệu từ khi người sau cùng chết, nhưng theo quy định của Luật Nhà ở 2005 thì người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế là nhà ở, kể từ thời điểm mở thừa kế (9). Như vậy, thời điểm có quyền sở hữu nhà phát sinh trước thời điểm di chúc chung có hiệu lực. Xét trên phương diện quyền sở hữu và quyền thừa kế, có thể thấy, khi người chủ tài sản chết sẽ làm chấm dứt tư cách sở hữu chủ của người đó đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, đồng thời làm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế. Thế nên, quy định của BLDS 2005 về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như trên là một vướng mắc rất khó giải quyết, nên cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho thống nhất với các quy định khác.
Thứ năm: việc xác định di chúc chung có hiệu lực vào thời điểm bên sau cùng chết sẽ làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn (10). Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật quy định rõ. Vấn đề đã được chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời hiệu khởi kiện thừa kế (11).
Thứ sáu: ảnh hưởng đến sự bảo toàn giá trị của khối di sản là tài sản chung.
Khi tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp. Việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó… Qua đó sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm. Thực chất nguyên nhân của những mâu thuẫn này xuất phát từ việc pháp luật quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, trong khi quyền thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế. Bởi vậy, cần phải cân nhắc sửa đổi quy định về thời điểm có hiệu lực pháp luật của di chúc chung một cách chặt chẽ, hợp lý hơn.
2. Một số kiến nghị
2.1. Về những định hướng chung
2.1.1. Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về di chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong BLDS 2005
Tuy di chúc chung của vợ, chồng cũng có những đặc điểm giống như một di chúc thông thường do cá nhân lập ra, nhưng di chúc chung còn có những đặc thù, như: (i) do ý chí của hai cá nhân là vợ – chồng cùng tham gia định đoạt, dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực của hai người đó; (ii) dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ, chồng; (iii) vợ, chồng có thể thỏa thuận các nội dung của di chúc chung; (iv) chỉ được sửa đổi khi có sự đồng của vợ chồng (nếu cả hai đều còn sống), và được sửa đổi riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản chung (nếu một bên đã chết)…
Như đã xác định, di chúc chung cũng là một loại di chúc, nên phải tuân thủ các quy định chung về điều kiện có hiệu lực của di chúc, về thời điểm phát sinh quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức, về thời hiệu khởi kiện thừa kế, về thực hiện việc phân chia tài sản theo di chúc, về quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc… Ngoài ra, còn có những nội dung khác liên quan đến thời hiệu khởi kiện, sự bảo toàn giá trị khối di sản là tài sản chung cho đến khi chia di sản theo di chúc chung, quyền thừa kế của những người thừa kế bắt buộc, quyền khởi kiện để xin tòa án tuyên bố di chúc vô hiệu do được lập không hợp pháp.
Bởi vậy, cần quán triệt quan điểm tách quy định về di chúc chung thành một mục riêng nhằm đảm bảo tính đặc thù của các quy định này, đồng thời dự liệu đầy đủ các nội dung khác nhau của di chúc chung. Cụ thể, quy định về di chúc chung sẽ được thiết kế thành một mục riêng – mục 2 của Chương thừa kế theo di chúc trong BLDS 2005. Theo đó, Chương thừa kế theo di chúc sẽ có hai mục là: mục 1 quy định chung về di chúc và thừa kế theo di chúc; mục 2 quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy định về di chúc chung của vợ chồng phải được quy định sao cho nhất quán với các quy định khác có liên quan.
2.1.2. Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là một vấn đề pháp lý quan trọng nhằm xác định thời điểm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế theo di chúc chung, cũng như có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác lập quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của mỗi bên vợ hoặc chồng. Bởi vậy, cần thừa nhận cả hai khả năng là vợ, chồng có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung và trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận về vấn đề này trong di chúc chung. Mục đích là làm cho quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vừa bảo đảm tính đặc thù của việc thể hiện ý nguyện chung của vợ, chồng, nhưng cũng đảm bảo tính thống nhất với các quy định khác có liên quan. Ví dụ: di chúc chung có thể định đoạt tài sản chung và cả tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng, trong trường hợp vợ, chồng có đề cập đến tài sản riêng trong di chúc chung đó; hoặc hiệu lực (một phần) của di chúc chung có thể được xác định vào thời điểm một bên vợ hoặc chồng chết. Nhưng nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung hoặc thỏa thuận về thời điểm phân chia di sản thì cần phải tôn trọng thỏa thuận đó…
Sự kết hợp mềm dẻo giữa quy định về di chúc cá nhân, quyền thừa kế của cá nhân với việc lập di chúc chung, hiệu lực và thực thi di chúc chung có một số đặc thù, sẽ làm cho quy định về di chúc chung không mâu thuẫn với quy định chung về thừa kế, nhưng vẫn bảo đảm được các nội dung cần thiết và những dấu hiệu riêng biệt của loại di chúc đặc thù này. Để đạt được yêu cầu đó, nhà làm luật cần quán triệt quan điểm xem di chúc chung của vợ, chồng như là trường hợp đặc biệt của di chúc cá nhân, là sự cộng lại của hai di chúc cá nhân, có tính đến sự đặc thù về hiệu lực của quan hệ hôn nhân giữa những người lập di chúc chung, cũng như đối tượng của di chúc ở đây là tài sản chung của vợ, chồng.
2.1.3. Ngoài việc quy định rõ ràng về các trường hợp cụ thể đặc thù của di chúc chung, pháp luật cần giải quyết rốt ráo các vấn đề bất cập phát sinh từ việc thừa nhận các đặc thù đó.
Khi luật thừa nhận những tính chất, dấu hiệu đặc thù của di chúc chung sẽ dẫn đến một số điểm khác biệt trong việc áp dụng pháp luật và hậu quả pháp lý của của việc áp dụng các quy định khác biệt đó. Trong những trường hợp như vậy, nhà làm luật cần tính đến những hệ quả kéo theo khi chấp nhận các quy định đặc thù này. Ví dụ: khi một phần nội dung có định đoạt đến tài sản riêng thì việc xác định thời điểm hiệu lực của phần di chúc riêng này dẫn đến hậu quả như thế nào, nếu như vợ, chồng thỏa thuận với nhau về thời điểm di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết; hoặc nếu vợ, chồng không thỏa thuận được về việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và một bên đã tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung thì phần sửa đổi, bổ sung đó có giá trị không; hoặc nếu một người để lại nhiều tờ di chúc chung với nhiều người vợ, chồng hợp pháp khác nhau của họ mà trong đó thỏa thuận nhiều thời điểm có hiệu lực khác nhau, đồng thời họ còn lập cả di chúc riêng để định đoạt tài sản riêng, thì các di chúc này được thực hiện như thế nào… cũng cần phải được dự liệu.
Việc dự liệu các tình huống trên một mặt khắc phục những bất cập của quy định hiện hành về vấn đề hiệu lực của di chúc chung, đồng thời qua đó cũng hoàn thiện việc xây dựng một mục riêng để quy định về vấn đề di chúc chung, như đã kiến nghị ở mục 2.1.1. trên đây.
2.2. Các kiến nghị cụ thể
2.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung theo hướng dự liệu cả trường hợp có thỏa thuận và không thỏa thuận giữa vợ, chồng về thời điểm này
Theo đó, Điều 668 BLDS 2005 được sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Điều 668 (sửa đổi, bổ sung): Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng:
“Khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vợ, chồng không có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ phần di chúc chung có liên quan đến phần di sản của người chết trước được định đoạt trong di chúc chung có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc chung về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng chỉ được phân chia từ thời điểm đó. Việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của các bên vợ, chồng trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền thừa kế hợp pháp của mình khi một bên vợ hoặc chồng chết trước”.
Nội dung điều luật được đề nghị sửa đổi nói trên vừa hóa giải sự xung đột giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với các quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền thừa kế, mốc tính thời hiệu khởi kiện, mốc để tính thời hạn từ chối di sản, quyền yêu cầu chia thừa kế, quyền được hưởng thừa kế bắt buộc…, nhưng cũng vừa thể hiện sự mềm dẻo của luật pháp. Qua đó, tạo cơ hội để những người thừa kế hợp pháp của mỗi bên vợ hoặc chồng được quyền khởi kiện để chia thừa kế bắt buộc, yêu cầu tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu hoặc yêu cầu tòa án tước quyền thừa kế của người được chỉ định thừa kế theo di chúc chung nhưng có hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 643 BLDS 2005.
2.2.2. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của phần di chúc do một bên sửa đổi, bổ sung mà không được sự đồng ý của người kia
Pháp luật hiện hành không thừa nhận một bên vợ hoặc chồng có quyền tự ý sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung mà không được sự đồng ý của người kia. Việc này đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với phần tài sản riêng của mình. Mặt khác, người ta có thể lẩn tránh pháp luật bằng cách định đoạt phần tài sản của họ bằng cách khác, như tặng cho, hoặc bán…
Để đảm bảo quyền tự do định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc được lập phù hợp với ý chí đích thực, tự nguyện của mỗi bên vợ – chồng, bên cạnh việc quy định vợ, chồng cùng nhau thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung, thiết nghĩ cũng cần phải thừa nhận quyền tự do của mỗi bên vợ, chồng trong việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần quyền của mình trong khối tài sản chung, dù không được sự đồng ý của bên kia. Đồng thời với việc thừa nhận mỗi bên vợ hoặc chồng có quyền tự do sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc chung trong phạm vi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, luật cũng cần phải quy định hệ quả pháp lý của việc này, nhất là việc xác định thời điểm có hiệu lực của từng phần di chúc chung sau khi di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, sửa đổi Điều 664 BLDS 2005 như sau:
Điều 664: “1. (nội dung khoản 1 giữ nguyên).
Khoản 2. (sửa đổi, bổ sung – đoạn in nghiêng): “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia. Một bên cũng có quyền tự mình sửa đổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của mình. Việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung theo ý chí của một bên chỉ có giá trị trong phạm vi phần sửa đổi, bổ sung nhưng không vượt quá phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung”.
Khoản 3. (kế thừa quy định của Điều 671 BLDS 1995):
“Nếu vợ, chồng thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, mà có một bên vợ chồng đã chết, thì người vợ hay chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
Khoản 4. (bổ sung quy định mới về hiệu lực của phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung và phần không bị sửa đổi bổ sung):
“Thời điểm có hiệu lực của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung và phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ sung theo thỏa thuận của vợ, chồng được xác định theo Điều 668 Bộ luật này. Phần di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ hoặc chồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 667 Bộ luật này”.
Quy định như trên nhằm đảm bảo quyền tự do định đoạt cá nhân trong việc để lại di sản thừa kế, đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa quy định này với các quy định khác có liên quan, như quy định về quyền sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản chung, quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản do người chết để lại… Hơn thế nữa, quy định này còn tạo cơ hội để một bên có thể sửa chữa những quyết định sai lầm của mình khi lập di chúc chung: được sửa đổi, bổ sung di chúc chung mặc dù không được bên kia đồng ý.
Đồng thời với việc sửa đổi quy định tại Điều 664 như vừa nêu, vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong trường hợp có sửa đổi, bổ sung cũng được quy định cụ thể theo hướng: ổn định giá trị pháp lý của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ sung; nếu việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung có sự thỏa thuận của vợ, chồng thì thời điểm có hiệu lực của nó được xác định theo nguyên tắc chung (Điều 668); đồng thời tách riêng phần di chúc được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một bên vợ, chồng để xem xét như một di chúc cá nhân.
2.2.3. Bổ sung thêm quy định về thời điểm có hiệu lực của các di chúc có liên quan, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ, chồng để lại nhiều di chúc khác nhau
Trong trường hợp một người để lại di chúc chung và nhiều di chúc cá nhân khác nhau hoặc để lại nhiều di chúc chung khác nhau (hoặc nhiều di chúc chung với nhiều người vợ hay người chồng hợp pháp khác nhau của người đó)(12) thì sự ảnh hưởng hiệu lực giữa các di chúc này với nhau ra sao, và thời điểm phát sinh hiệu lực của các di chúc là thời điểm nào, là vấn đề phức tạp nhưng vẫn chưa được quy định cụ thể trong luật hiện hành. Thiết nghĩ, giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của mỗi tờ di chúc trong trường hợp này phải được xem xét như những di chúc riêng biệt của một cá nhân, dựa trên mối tương quan về nội dung, cũng như thời điểm mà mỗi tờ di chúc được lập. Tùy nội dung các di chúc có mâu thuẫn nhau hay không, tùy thời điểm lập các di chúc là trước hay sau, mà quy định cụ thể về giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của từng tờ di chúc đó một cách hợp lý, tương tự như di chúc của cá nhân. Nội dung này được thiết kế thành điều luật mới. Nội dung điều luật có thể được diễn đạt ngắn gọn bằng phương pháp dẫn chiếu điều luật quy định về những nội dung tương ứng của di chúc cá nhân.
Điều 688 a. (bổ sung mới) “Nếu một người vừa lập di chúc chung, vừa lập di chúc riêng hoặc lập nhiều di chúc chung với nhiều người khác nhau, thì việc xác định giá trị pháp lý của mỗi tờ di chúc được dựa theo quy định tại các Điều 662, Điều 664, khoản 5 Điều 667 và Điều 688 của Bộ luật này” (13).
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết những những di chúc có nội dung mâu thuẫn nhau, trong trường hợp các di chúc đó được lập vào những thời điểm khác nhau bởi mỗi bên vợ hoặc chồng, hoặc bởi cả hai vợ, chồng. Theo đó, nếu nội dung của các tờ di chúc không mâu thuẫn nhau, thì các di chúc đó đều có giá trị pháp lý; nếu nội dung của các di chúc mâu thuẫn nhau thì di chúc sau cùng là di chúc có giá trị pháp lý; nếu một phần di chúc trước có mâu thuẫn với di chúc sau, thì phần di chúc trước đó không có giá trị pháp lý còn di chúc sau và phần di chúc trước không mẫu thuẫn với di chúc sau có giá trị pháp lý. Quy định như trên cũng tạo ra sự thống nhất với quy định mới về quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung của một bên vợ hoặc chồng.
2.2.4. Cần quy định rõ ràng về hệ quả của việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế
Nếu thừa nhận vợ, chồng có thể thỏa thuận xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết thì cần phải xác định rõ hậu quả của quy định này đối với việc tính thời hiệu khởi kiện thừa kế. Về nguyên tắc, thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm, tính từ thời điểm mở thừa kế (14).
Tuy pháp luật cũng thừa nhận 3 trường hợp có thể làm gián đoạn thời hiệu khởi kiệnT (15) và hai trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện (16), nhưng việc quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không hoàn toàn thuộc những trường hợp gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu vừa nêu. Và nếu không được quy định minh bạch, vấn đề này sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Để tạo căn cứ pháp lý rõ ràng cho việc áp dụng quy định pháp luật về cách tính thời hiệu khởi kiện thừa kế, thiết nghĩ nhà làm luật cần bổ sung quy định về căn cứ làm gián đoạn hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện thừa kế, nếu quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, nếu vợ, chồng có thỏa thuận. Cụ thể:
Điều 645 (bổ sung):
“1. (nội dung quy định hiện hành được giữ nguyên và thiết kế thành khoản 1 của Điều luật).
Khoản 2. (bổ sung): Thời hiệu khởi kiện thừa kế được bắt đầu lại trong các trường hợp sau:
a. Khi vợ, chồng có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, thì thời hiệu khởi kiện thừa kế bắt đầu lại từ ngày di chúc chung có hiệu lực.
Quy định này không cản trở những người thừa kế khởi kiện sớm hơn để xin chia thừa kế phần di sản không được định đoạt trong di chúc chung; hoặc khởi kiện xin tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu do di chúc không hợp pháp hoặc người thừa kế theo di chúc chung chết trước người lập di chúc, không có quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối quyền hưởng di sản; hoặc khởi kiện xin chia thừa kế theo quy định tại Điều 669 của Bộ luật này (thừa kế bắt buộc)”.
3. Kết luận
Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là vấn đề phức tạp, có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc thực thi di chúc chung của vợ, chồng, đồng thời có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề pháp lý khác, như thời hiệu khởi kiện thừa kế, quyền được hưởng di sản của những người thừa kế bắt buộc. Quy định của luật hiện hành về vấn đề này tỏ ra bất cập và chưa tính đến nhiều hệ quả pháp lý khác có liên quan, nhất là khi vợ, chồng lập nhiều di chúc khác nhau, gồm cả di chúc riêng của cá nhân và di chúc chung với người vợ hay người chồng khác (ví dụ người vợ hay người chồng sau trong trường hợp ly hôn hoặc do một bên chết trước). Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung điều luật này phải đượcxuất phát từ quan điểm mềm dẻo, tôn trọng quyền tự do lập di chúc của cá nhân, và phải đặt nó trong quan hệ tổng thể với các quy định khác có liên quan, như quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền hưởng di sản của người thừa kế, quyền được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc của những những người thừa kế bắt buộc của người để lại di sản…; đồng thời phải giải quyết toàn diện các hệ quả pháp lý đặt ra của việc thừa nhận các thời điểm có hiệu lực khác nhau của di chúc chung, của di chúc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và các di chúc khác của mỗi bên vợ hoặc chồng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong trường hợp có di chúc chung…, có tính đến những tính chất đặc thù của di chúc chung. Có như vậy mới khắc phục triệt để những bất cập của quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong Bộ luật Dân sự hiện hành.
Chú thích:
(1) “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (Khoản 1 Điều 634 BLDS 2005). Thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng: là thời điểm làm phát sinh quyền thừa kế, là mốc tính thời hiệu khởi kiện, là thời điểm để xác định giá trị di sản, xác định phạm vi những người thừa kế của người chết…
(2) Điều 671 BLDS 1995: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực…”. Theo đó, một di chúc chung phải được thực hiện nhiều lần, hoặc có thể khởi kiện chia thừa kế nhiều lần.
(4) Điểm c, khoản 1, Điều 168 và Điều 193 Bộ luật Tố tụng dân sự 2003.
(5) Quyền thừa kế là một quyền hiến định: xem Điều 58 Hiến pháp 1992 “… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”; BLDS cụ thể hóa thành quyền dân sự cơ bản của chủ thể: xem các Điều 15 khoản 2
(12) Xem thêm điểm A, mục 4 nghị quyết 02/1990/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế (1990): theo đó, một người có nhiều vợ hay nhiều chồng, nhưng vẫn được xem là quan hệ vợ chồng hợp pháp, nếu quan hệ hôn nhân đó không bị tòa án tuyên bố hủy bỏ hôn nhân trái pháp luật bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
(13) Điều 664 và Điều 688 vừa được kiến nghị sửa đổi, bổ sung ở trên.
(14) Điều 645 BLDS 2005.
(15) Điều Điều 161 BLDS 2005.
(16) Điều 162 BLDS 2005.và Điều 631… BLDS 2005.
(6) Điều 636 BLDS 2005.
(7) Điều 642 BLDS 2005.
(8) Vì vào lúc người vợ hay chồng chết trước, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung vẫn chưa có quyền hưởng di sản theo di chúc chung.
(9) Khoản 5 Điều 92 Luật Nhà ở năm 2005; Khoản 5, Điều 63 Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật nhà ở năm 2005.
(10) Điều 645 BLDS 2005.
(11) Xem: Lê Minh Hùng, Thời hiệu khởi kiện thừa kế – Thực trạng pháp luật và hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2004, tr. 40 – 50.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
LUẬT BẮC VIỆT ( BVL LAWFIFM)
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
-------------------------------------------
Liên hệ với Luật sư :
P: 0938188889 - 0913753918
M: ceo@bacvietluat.vn – lawyer.@bacvietluat.vn
|
Bình luận
Bình luận bằng Facebook